Sau những năm tháng bị giam cầm trong các trại tù ở ngoài bắc, các chiến sĩ Biệt Kích lần lượt được trả tự do, có người bị bắt từ năm 1961 khi cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) bắt đầu thả những toán quân Biệt Kích ra ngoài Bắc. Bài viết dưới đây dựa theo cuốn “Secret Army, Secret War” tạm dịch là “Đạo Quân Bí Mật, Trận Chiến Bí Mật” của tác giả Sedgwick Tourison.
Bắt đầu cuối năm 1979, các tù binh Biệt Kích trong trại tù Thanh Phong, dần dần được trả tự do. Trong mùa hè năm 1982, phần lớn các Biệt Kích quân trong trại tù K1 đã được trả tự do, trở về với gia đình của họ. Trước khi được trả tự do, cán bộ miền bắc từ Hà Nội đã nói với nhiều Biệt Kích quân rằng ... họ sẽ tiếp tục làm những người vô dụng. Những quân nhân Biệt Kích bị để ý được thông báo nên chuẩn bị sẽ có cán bộ thăm viếng bất ngờ.
Đến tháng 12, những ai vẫn còn bị giam ở K1 được chuyển về nhà giam Trung Ương số 3 trong quận Tân Kỳ, tỉnh Nghệ Tĩnh. Trong mùa thu năm 1987, bẩy quân nhân Biệt Kích cuối cùng được trả tự do để trở về nhà. Trong đó có Nguyễn Hữu Luyện, một người chống đối đến cùng. Một Biệt Kích quân bị giam 15 năm kể lại câu chuyện “Ngày Trở Về” của anh như sau.
Tôi còn nhớ lúc xuống tới ga xe lửa Saigon. Lúc đó trời đã tối, tôi biết không thể nào về thẳng nhà được vì đã không liên lạc với mẹ tôi trong 15 năm qua. Chúng tôi được phép viết thư báo tin cho gia đình từ năm 1976, nhưng tôi không tin, cho rằng đây cũng lại trò bịp bợm của bộ Nội Vụ. Có người trong nhóm được thân nhân thăm viếng, đặc biệt những người có thân quyến ở ngoài Bắc. Hầu hết anh em chúng tôi không muốn gia đình mình phải chi tiêu một số tiền tốn kém cho chuyến đi ra tận ngoài Bắc thăm viếng. Chúng tôi cũng có thể dấu thư, nhờ người đi thăm nuôi đem ra ngoài gửi về nhà báo tin. Những người đi thăm nuôi thường rất có cảm tình và có vẻ thương xót cho những người tù Biệt Kích trong miền Nam ra bị bắt. Riêng cá nhân tôi không viết gì cả.
Tôi đi bộ từ trung tâm thành phố Saigon về nhà mẹ tôi. Tôi tránh đi trên đường sợ gặp phải trạm kiểm soát. Rốt cuộc tôi vẫn không có giấy tờ tùy thân và giấy phép đi đường đã quá hạn. Tôi dừng lại trong một quán cà phê bên đường, đối diện với căn nhà năm xưa của mẹ tôi. Tôi ngồi im lặng trong đó vài tiếng đồng hồ chờ đợi trước khi trời sáng.
Rất khó cắt nghiã được cảm xúc của tôi, sau 15 năm tù đầy trong những trại cải tạo lao động, e rằng tôi có những hành động, phản ứng khác thường. Trời vừa tảng sáng, mẹ tôi từ trong căn nhà yêu dấu đi ra. Tôi vẫn ngồi yên lặng nhìn mẹ tôi, rồi đảo mắt xung quanh xem có ai ở gần không? Không một bóng người, tôi cảm thấy an toàn...
Tôi bước theo sau mẹ tôi một quãng ngắn, sau đó bước lên đi song song bên cạnh mẹ tôi. Đi được chừng vài bước, tôi vẫn chưa biết định nói gì với người. Mẹ tôi dường như linh cảm có người đi bên cạnh, bà ngừng lại vài giây. Tôi nhìn mẹ tôi, thốt lên ‘Mẹ! Con đây!’.
Sửng sốt, bà nhìn tôi vài giây rồi nắm lấy tay tôi dắt trở về nhà. Chuyện xẩy ra như ngày xưa, khi tôi còn là đứa trẻ làm điều bậy ngoài đường, bị mẹ lôi về nhà. Vào đến nhà trên, bà dắt tôi đến trước bàn thờ ông bà. Trên bàn thờ có tấm ảnh của cha tôi và bên cạnh là bức hình của tôi. Mẹ tôi nhìn tôi nhìn tấm ảnh trên bàn thờ rồi lại nhìn tôi, nhìn tấm ảnh. Sau cùng bà nói khẽ, giọng run run “Con ơi! ... Mẹ nghĩ rằng con đã chết rồi!”.
Cuối cùng tôi đã trở về nhà, tôi không còn biết nói gì thêm. Anh hùng Biệt Kích Nguyễn Văn Hinh, quay mặt ra cửa sổ... nghẹn ngào.
Khi Tourison viết cuốn “Đạo Quân Bí Mật, Trận Chiến Bí Mật”, hơn một trăm Biệt Kích quân đả đến định cư tại Hoa Kỳ. Gần hai trăm người khác vẫn còn ở Việt Nam, cũng như hàng trăm quả phụ, cô nhi của các Biệt Kích quân.
Nguyễn Hữu Luyện, người tổ chức, huấn luyện toán HECTOR được trả tự do sau 21 năm bị giam cầm. Ông ta vượt biên không thành công và bị bắt lại. Đầu năm 1992, ông được trả tự do và được phép rời Việt Nam qua Hoa Kỳ. Hiện nay ông cùng vợ đang sống tại phiá đông thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts.
Một người khác trong nhóm bẩy quân nhân Biệt Kích được thả cuối cùng, Quách Rạng thuộc sắc tộc Mường đến Hoa Kỳ năm 1992, sống tại thành phố Chamblee, tiểu bang Georgia. Vợ ông là bà Ngọc Ban, một người đàn bà rất can đảm, đã nói chuyện với một nhóm 400 người Việt Nam ở Atlanta. Bà kể lại câu chuyện lúc được tin chồng mất tích, nhận lãnh lương tử tuất của chồng, nhưng vẫn tiếp tục mong chờ người chồng trở về. Bà ta biết rằng ông ta sẽ trở về.
Những Biệt Kích quân khác cũng đã vượt Thái Bình Dương đến định cư trên khắp các tiểu bang của Hoa Kỳ, từ Boston đến Seattle. Trong đó có Mai Nhuệ Anh trưởng toán HECTOR 2, Quách Nhung người sống sót duy nhất trong toán HORSE, Trương Tuấn Hoàng người cuối cùng nhẩy ra bắc tăng cường cho toán REMUS và Hà Văn Chấp trưởng toán CASTER cùng với toán viên Đinh Anh, toán đầu tiên được CIA thả ra miền Bắc. Lê Văn Bưởi đến Hoa Kỳ năm 1993, khi tôi đang viết sách, ông Bưởi đang điều trị ung thư ở Utica, New York. Ông ta bị bệnh ung thư ở cổ và có lẽ không sống lâu để đọc cuốn tài liệu này.
Lê Văn Ngung trưởng toán HADLEY hiện đang làm khuôn mẫu cho hãng Kirk & Stieff trong thành phố Baltimore tiểu bang Maryland. Toán viên của ông ta là Vũ Viết Tịnh hiện đang dọn dẹp trong một bệnh viện ở Indiana và đã lập gia đình vào tháng 12 năm 1994. Nguyễn Không trôi dạt vào bãi biển ngoài Bắc Việt cùng với thủy thủ đoàn chiếc tầu đổ bộ NAUTILUS 7, hiện đang đánh tôm cá ngoài khơi vịnh Mễ Tây Cơ thay vì đưa người xâm nhập trong vùng vịnh Bắc Việt.
Bùi Minh Thế trong toán BECASSINE vượt biên thành công, đến định cư ở Henderson Louisiana. Vài năm trước đây, ông gặp lại người vợ sau bao năm xa cách. Hiện giờ ông lâm trọng bệnh, nằm liệt giường và có lẽ không có dịp đọc những điều tốt, ca tụng sự can trường của ông ta. Đặng Công Trình toán phó toán SCORPION, một trong những người bất khuất, chống đối đến cùng, hiện đang làm trong một nhà kho ở California. Bạn đồng nghiệp chắc không biết về thành tích quá khứ của ông ta.
Thuý, vợ Trịnh Văn Truyên, thủy thủ chiếc NAUTILUS 3, đến định cư với chồng ở Biloxi, tiểu bang Mississippi và Truyên trở lại nghề biển. Thuý bị bắn ở New Orleans, tiểu bang Louisisana hôm 31 tháng Bảy năm 1990 trong một vụ cướp. Bọn cướp chỉ lấy được chiếc bóp đầm không có tiền. Lúc đó bà ta đang có thai bẩy tháng, đứa bé chưa sinh chết. Bà ta là một người đàn bà cứng cõi nhưng không cứng hơn người đàn ông bà cưới lúc ông ta sống trong ngục tù.
‘Nếu tôi biết được những chuyện mà giờ đây tôi tin là sự thật, tôi đã cho nhiều tay về vườn’.
Tướng Westmoreland, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam 1964-1968
Một trong những người đầu tiên rời Việt Nam là Nguyễn Văn Hinh, toán viên trong toán Attila, anh ta vượt biển đến trại tỵ nạn ở Singapore. Lúc phỏng vấn định cư, người Hoa Kỳ không tin câu chuyện thời gian bị cầm tù ngoài miền Bắc của anh và từ chối. Không những thế, họ còn nghi ngờ anh là phạm nhân đã tạo dựng nên một nhân vật không có thật. Trong thời gian sống trong trại tỵ nạn, anh gặp một cô, trước là một nữ tu sĩ, nhưng sau đó thôi vì cộng sản không cho phép. Hai người lập gia đình và đến định cư ở Hòa Lan. Anh Hinh rất ít viết thư, lý do anh đã phải viết quá nhiều những bản tự kiểm thảo trong tù. Đó cũng là điều dễ hiểu.
Hai biệt kích quân khác, Trần Văn Tư và Nguyễn Văn Lực đến định cư ở Úc Đại Lợi. Anh Tư vẫn còn vết sẹo nơi mắt cá chân lúc anh bị cùm ở trong tù, lần đó tưởng anh ... không qua khỏi. Vết thương ghê gớm làm cho chân anh có tật.
Còn nhiều anh hùng biệt kích nữa, sẽ kể chuyện của họ cho chúng ta. Mai Văn Học, Hoàng Văn Chương trong các toán Strata. Lầu Chí Chấn, Châu Hềnh Xương, Lý Si Lâu, Vũ Đức Gương, và những biệt kích Người Nhái khác đã lướt sóng xâm nhập hải phận miền bắc Việt Nam trong vịnh Bắc Phần. Năm 1986, Vũ Đức Gương làm đơn khiếu nại trả lương trong thời gian anh bị giam cầm gần 20 năm ngoài miền bắc. Toà án cho rằng không đủ chi tiết về cuộc hành quân, và lý do tài liệu về biệt kích quân của bộ quốc phòng vẫn còn trong thời gian bảo mật. Giờ đây, lý do này không còn là vấn đề trở ngại.
Hầu hết các biệt kích quân đã định cư, cố gắng xây dựng gia đình, nhiều người thành công. Thỉnh thoảng, họ gặp lại nhau, bên ly rượu, các biệt kích quân tâm sự về thời gian đã qua, những người bạn đã ... ra đi, và những người còn lại vẫn tin vào định mệnh. Khi họ bị bắt ngoài bắc, gần hết đều còn độc thân, tuổi tác trong khoảng hai mươi. Giờ thì đã lớn tuổi, có người nhuộm tóc để trẻ lại thêm ít tuổi, họ là những công dân tốt trong xã hội. Khi đàn con cháu của họ lớn lên đọc những trang giấy này sẽ hiểu biết thêm về cha, ông của chúng.
Nhiều biệt kích quân khác kém may mắn. Hoàng Ngọc Chính, Đoàn Phương và Nguyễn Văn Lý qúa chán thời gian chờ đợi giới chức thẩm quyền trả lời. Họ tìm cách vượt biên, Phương và Lý đi đường biển, Chính theo đường bộ băng qua đất Miên. Cả ba anh hùng biệt kích đều mất tích cho đến nay.
Lê Trung Tín trong toán Red Dragon từ bên Tầu quay trở lại Việt Nam. Hiện nay anh lo thuyết phục giới chức phỏng vấn của sở Di Trú Hoa Kỳ ở Saigon về câu chuyện của anh. Anh Tín cùng chiến hữu của anh là Vòng A Cầu đã làm nhiệm vụ của người quân nhân. Họ vượt ngục, và cũng là hai người đầu tiên sống sót, trốn khỏi trại tù nơi miền bắc Việt Nam. Sở di trú Hoa Kỳ cho rằng họ chưa ở tù cộng sản đủ thời gian nên không hội đủ điều kiện.
Một người kém may khác là Hoàng Đình Mỹ trong toán Hector. Trong tháng 12 năm 1984, anh đứng trước tòa án nhân dân tại Saigon lãnh án vì tội tham gia kháng chiến do Lê Quốc Tuý bên Pháp lãnh đạo. Năm 1995, anh Mỹ vẫn còn bị giam trong trại tù ở Nha Trang. Được thả về từ trại tù Thanh Lam ngoài miền bắc năm 1981, anh trở về mái nhà xưa trong miền nam, sau đó qua Thái Lan gia nhập tổ chức kháng chiến. Năm 1982, anh quay về Việt Nam và bị bắt trong vòng một tuần.
Nguyễn Văn Tân toán Romeo, người bị đánh đập tàn nhẫn nhất trong vụ tuyệt thực phản đối chế độ lao tù năm 1973. Nộp đơn xin trợ cấp tật nguyền khi đến định cư ở Hoa Kỳ. Năm 1988, vị bác sĩ khám bệnh cho anh Tân cho biết ‘Tâm thần của anh có điều gì không hay! (Không làm việc bình thường nữa)’.
Lương Văn Inh trong toán Dog, lên vùng cao nguyên trong miền nam lập nghiệp nơi quận Đức Trọng gần thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Đầu tháng Sáu năm 1994, anh trở xuống vì bệnh sốt rét tái phát trầm trọng. Vị y sĩ địa phương khuyên vợ anh nên đưa anh vào nhà thương. Giữa cơn mưa bão, lúc nửa đêm hai người con trai của anh cùng hai dân làng võng anh từ trên đồi xuống một con đường cách xa khoảng bốn cây số. Anh chết trên đường đi. Vợ anh viết thư cho tác giả Tourison “Điều duy nhất, chồng tôi muốn là các con tôi được ăn học và được tự do... bây giờ anh không còn nữa”.
Thượng Tá Nguyễn Sang giám đốc cục trông coi các trại tù ở Hà Nội trong năm 1979 đã về hưu năm 1982. Trung Tá Tô Bá Oanh chỉ huy trại tù lao động cải tạo Hồng Thắng lên Đại Tá và chỉ huy nhà tù trong tỉnh Sông Bé, ông ta quản lý tù hình sự thay vì các tù biệt kích năm xưa.
Câu chuyện về biệt kích quân có lẽ còn lâu mới kết thúc. Ngày 23 tháng Ba năm 1995, vị Đại Sứ Hoa Kỳ bên Thái Lan gửi một văn thư dài năm trang giấy đến bộ ngoại giao và sở di trú đặt câu hỏi tại sao hầu hết biệt kích quân còn sống sau năm 1975 bị sở di trú bên Thái Lan từ chối? Kết quả tháng Năm 1995, sở di trú Hoa Kỳ đã phải thay đổi điều kiện nhập cảnh cho các cựu biệt kích quân Việt Nam.
Trước đó ngày 14 tháng Tư, tờ New York Times đăng bài viết của Tim Weiner về những cố gắng của vị Đại Sứ trong việc sửa sai sở di trú. Vài hôm sau, câu chuyện về biệt kích quân được cả thế giới chú ý. Cựu tư lệnh quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William C. Westmoreland, Thiếu Tướng John Morrison, Chuẩn Tướng George Gaspard, Thượng Nghị Sĩ John McCain, và nhiều giới chức quan trọng khác viết thư cho vị Đại-Sứ, bầy tỏ sự ủng hộ ông ta. Thượng nghị sĩ McCain còn viết thư gửi thẳng cho sở di trú Hoa Kỳ.
Ngày 24 tháng Tư năm 1995, John Mattes một luật sư ở Miami Florida đưa đơn kiện chính-phủ Hoa Kỳ nơi tòa án liên bang ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Đơn thưa này đòi bồi thường cho 281 cựu biệt kích quân bị giam cầm hoặc đã chết trong các trại tù nơi miền bắc Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ phải trả lương cho họ xứng đáng theo đúng bản hợp đồng tuyển mộ các biệt kích quân Việt Nam.
Theo tài liệu ‘Secret Army Secret War’ tác giả Sedgwick Tourison.
Carrollton, TX. 16-04-2000
vđh
No comments:
Post a Comment