Tuesday, June 4, 2019

KỂ CHUYỆN VỀ LÍNH BIỆT KÍCH

Hồi mặt trận An Lộc, báo chí có nói tới hai câu thơ của cô giáo Pha viết trên bức tường của một ngôi trường bị bom đạn đã làm đổ sụp:

An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân
 

Tôi tuy cũng là quân nhân đối diện với cái chết thường xuyên, nhưng với những Binh chủng oai hùng như Biệt Động Quân, Nhảy Dù hoặc Thủy Quân LụcChiến thì lòng rất ngưỡng mộ; còn về Biệt Cách Dù thì cũng từng nghe thấy báo chí đề cập tới Liên Đoàn 81, nhưng cũng không biết đơn vị này thuộc lực lượng nào và do ai chỉ huy, đóng quân ở đâu v.v… Hồi qua núi Sơn Trà, Đà Nẵng đi đổ toán thì chỉ biết tại đây có trại Lôi Hổ, họ ăn mặc quần áo kaki Nam Định của lính chính quy Bắc Việt, trang bị AK báng xếp, những toán viên mặt lạnh như tiền, ngồi im lìm không hề gợi chuyện với ai, kể cả với phi hành đoàn. Rồi cách đây gần 10 năm, khi tôi đang đổ lại miếng cement đằng trước nhà, thì thấy có ba người trạc bằng tuổi tôi, mà lại đi với mấy bà vợ, nhòm nhòm ngó ngó như muốn tìm nhà để mướn, nên tôi chào hỏi. Họ cũng đứng lại nói dăm ba câu chuyện và tỏ thực là dân H.O. mới qua, giờ sống chung trong căn Apartment chật chội quá, muốn đi thuê căn nhà cho thoải mái hơn. Tôi hỏi các anh bị tù bao lâu. Họ đáp có người 20 năm, có người 30 năm. Tôi ngạc nhiên hỏi vặn, vậy chớ các anh cấp cao lắm hay sao mà ở lâu vậy? Họ nói là bị ở lâu là vì bị bắt ngoài Bắc hồi năm sáu mấy mà đến gần cuối thập niên 90 mới ra. Sau cùng tôi mới vỡ lẽ là họ thuộc toán nhảy ra Bắc. Vì công việc cũng đang cần người, nên tôi có nhận một anh đi làm chung. Nghe nói về quá khứ của anh, người bạn tôi cũng kể là hồi xưa anh ta là Hạ Sĩ Quan đi học lớp Truyền Tin, trong đó có một Nữ Quân Nhân, sau này cô ấy nhảy toán ra Bắc và bị bắt ở ngoài đó. Anh Bạn Biệt Kích trầm ngâm rồi nói rằng: - Không có đâu anh. Nhiều người thuộc lực lượng khác, có khi họ chỉ nhảy trong nội địa hoặc qua bên kia biên giới Miên, Lào. Những toán nhảy Bắc tôi biết tên hết vì bị nhốt chung với nhau khá lâu, mà khi huấn luyện ở căn cứ Long Thành thì cũng biết nhau nữa. Nữ toán viên không có người nào đâu, và nếu có cũng không có ai bị bắt. Sau này tôi đọc bài viết của ông Phan Lạc Phúc, có đề cập tới Người tù Kiệt Xuất Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện cũng nhảy toán ra Bắc rồi bị bắt. Tôi tìm hiểu qua anh bạn tôi, nhưng anh chỉ là một toán viên thường nên kiến thức tổng thể về đơn vị không có nhiều, vì thế tôi vẫn còn mù mờ về lính Biệt Kích. Cho đến hôm nay, nghe anh Lôi Hổ Nguyễn Hữu Thọ kể lại, tôi mới biết nhiều về lực lượng này.
Lực Lượng Đặc Biệt được thành lập thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mang một cái tên rất hiền lành là Sở Khai Thác Địa Hình do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy, nhưng đặt trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Tổng Thống hoặc ông Ngô Đình Nhu. Trong cơ cấu tổ chức của sở thì có phòng E hay phòng 45 đặc trách nhiệm vụ tình báo bên kia vĩ tuyến 17 thường được gọi là Sở Bắc. Toán ra Bắc thường là ba bốn người, nhưng cũng có những toán một người về qua ngả chính thức từ Lào, Miên hay Pháp… dưới vỏ bọc là Việt Kiều.
Đầu năm 63, Sở Khai Thác đổi thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt với hai Liên Đoàn 77 và 31. Sở Bắc vẫn duy trì và phối hợp với Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Chính biến 1-11-63 xẩy ra và Đại Tá Tung bị giết chết vì không chịu phản bội Tổng Thống Diệm. Sau đó Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt bị chuyển ra đóng ở Nha Trang. Sở Bắc được tách ra khỏi Lực Lượng Đặc Biệt lấy tên là Sở Khai Thác đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tổng Tham Mưu. Chỉ Huy Trưởng là Đại Tá Trần Văn Hổ và các Cố Vấn Mỹ của MACV. Cùng thời gian này Sở Liên Lạc được thành lập với nhiệm vụ hoạt động xâm nhập ngoại biên trên đất Lào và Campuchia. Các toán Thám Sát được gọi là Lôi Hổ (Thundering Tiger). Chỉ Huy Trưởng của Sở Liên Lạc là Đại Tá Hồ Tiêu và đơn vị đóng gần sân banh Quân Đội cạnh Bộ Tổng Tham Mưu. Tóm lại, Sở Bắc (Sở Khai Thác) là toán Biệt Kích nhảy ra ngoài Bắc, Sở Liên Lạc là toán Lôi Hổ nhảy qua Lào và Miên. Cả hai Sở này thuộc Nha Kỹ Thuật, còn Biệt Kích Delta cũng là toán Lực Lượng Đặc Biệt, nhưng nhảy trong nội địa. Đến năm 1971 thì sự yểm trợ của Mỹ giảm bớt rất nhiều nên Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Nha Kỹ Thuật gom lại thành những sở sau đây: - Sở Liên Lạc - Sở Không Yểm (liên quan đến Không Quân) - Sở Phòng Vệ Duyên Hải (Hải Quân và Người Nhái) - Sở Tâm Lý Chiến (Đài Phát Thanh Mẹ Việt Nam và Đài Gươm Thiêng Ái Quốc) - Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng (Long Thành) - Sở Công Tác gồm Đoàn 11 và 68 đã có từ trước và khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán thì lập thêm Đoàn 71, 72 và 75. Bây giờ tôi xin nói về Biệt Cách Dù: - Trước Mậu Thân 1968 Lực Lượng Đặc Biệt có 1 Tiểu Đoàn mang tên là 81 Biệt Cách để yểm trợ hành quân cho các toán Delta. Tiểu Đoàn này hoàn toàn là lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chứ không có CIDG (Dân sự chiến đấu do Mỹ trả lương). Khi các toán Delta đi nhảy toán khám phá ra sự chuyển quân, nơi đóng quân hay kho tàng của Việt cộng thì thường gọi Không Quân đến thanh toán, nhưng cũng đôi khi cần đến lực lượng bộ chiến thì đã có đơn vị Biệt Cách Dù này. Họ chiến đấu dũng mãnh còn hơn Tổng Trừ Bị nữa. Hồi Mậu Thân, vị Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Cách 81 là Thiếu Tá Quế đã tử trận. Sau 1970, Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, các căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt dọc biên giới đổi thành Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng, còn các căn cứ sâu trong nội địa chuyển qua Địa Phương Quân trực thuộc Tiểu Khu của Tỉnh sở tại. Các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan kỳ cựu danh tiếng hầu hết được rút về Nha Kỹ Thuật , hoặc Biệt Động Quân còn thì về Biệt Cách Dù hết. Lúc này Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù đã tăng quân số và trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đổi huy hiệu của Lực Lượng Đặc Biệt từ con cọp nhảy qua dù thành con chim ưng lồng trong hình tam giác. Họ vẫn giữ bê rê nồi màu xanh, có dù màu đỏ. Những chiến sĩ này vì nhớ tới nguồn gốc đơn vị cũ nên vẫn còn mang trên vai áo huy hiệu Lực Lượng Đặc Biệt còn bên kia là Biệt Cách Dù. Như vậy Lực Lượng Đặc Biệt chính là tiền thân của Biệt Cách Dù. Bây giờ trở lại với các Chiến Đoàn Xung Kích của Lôi Hổ: - Chiến Đoàn 1 thường nhảy qua vùng thượng Lào, từ Đông Hà theo đường số 9, bay ngang Khe Sanh mà vượt biên giới. Nơi đây đồi núi chập chùng nên khi đã nhảy xuống đất rồi thì di chuyển rất khó khăn. Các máy bay H34 cổ lỗ sĩ của Phi Đoàn 219 lại tỏ ra rất hữu hiệu, nhất là khi bốc hay đổ toán. Nó có động cơ nổ 10 máy nên chịu đạn "chì" hơn loại UH bán phản lực sau này. Thường thì sau khi đã có Sĩ Quan Tiền Không Sát đi chụp hình bãi đáp ngày hôm trước bằng phi cơ quan sát, cả toán Lôi Hổ, Chỉ Huy Trưởng và Trưởng Phi cơ đã vào phòng thuyết trình Hành Quân, và khi đầy đủ Trực Thăng Võ Trang hay khu trục hộ tống, thì 3 chiếc H34 sẽ vào vùng, họ bay rất cao và chiếc chở toán sẽ cúp ga, làm một cú lá vàng rơi xoắn ốc cho đến gần mặt đất mới tăng ga để đáp. Làm Auto Rotation như thế thì mới tránh khỏi bị bắn rơi, những tay Pilot phải rất giỏi và kinh nghiệm đầy mình. Đổ quân vùng này thì ngoài sự đối đầu với cán binh Bắc Việt, còn đôi khi phải chơi luôn cả phe Pathet Lào nữa. Chuyến bay tử thần vào đồi 31 Hạ Lào Kingbee Bùi Tá Khánh
Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, Đại Úy Đại Đội Trưởng Đại Đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người Tù Binh", và anh Nguyễn Văn Long, Thiếu Úy sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ở Úc Châu.
Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân. Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong Phi Đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I Không Quân trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi Đoàn 219 là hậu thân của Biệt Đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của Phi Đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi. Là một Phi Đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt Nam hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà dọn bãi thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị Không Quân trực thuộc Sư Ðoàn I Không Quân trong đó có Phi Đoàn 219. Như vậy Phi Đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày Phi Đoàn 219 tăng phái một Phi Đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30, 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ Nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi Phi Đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.
Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi Đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung Tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn Văn Em là mê vô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào Phi Đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.
Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Đoàn Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mê vô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel. Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một Tiểu Đội Tác Chiến Điện Tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước Phi Hành Đoàn anh Nguyễn Thanh Giang về. Mười lăm phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp Tiểu Đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12 ly 7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của Phi Đoàn 213 do Trung Úy Thục bay trước mở đường. Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi Hành Đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ Văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mê vô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu quả. Gần đến Landing Zone, anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của Trung Úy Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mê vô Em la lên khẩn cấp trong máy "Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ Đại Úy An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của Đại Đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè Thiếu Úy, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971. Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn. Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến Ban Chỉ Huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại Phi Hành Đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là Đại Tá Thọ Lữ Đoàn Trưởng Lữ Ðoàn 3, Thiếu Tá Ðức Trưởng Ban 3, Đại Úy Trụ phụ tá Ban 3, Đại Úy Nghĩa sĩ quan liên lạc Không Quân, Trung Úy Chính sĩ quan Không Trợ Dù, Thiếu Úy Long phụ tá Ban 2. Về phía Pháo Binh thì có Trung Tá Châu Tiểu Đoàn Trưởng và Đại Úy Thương Trưởng Ban 3 thuộc Tiểu Đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại Tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật. Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn Quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khoá 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Trung Úy Nguyễn Hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong Phi Đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng. Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến Không Quân Việt Nam và Hoa Kỳ không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù. Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân Phi Đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 Phi Hành Đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhở câu mà anh em trong Phi Đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!". Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả Pháo Đội Trưởng Nguyễn Văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm. Về phía Không Quân, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra Bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các Sĩ Quan và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mê vô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường. Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 Phi Hành Đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 Phi Hành Đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không? Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 33 năm ít ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.  
Bùi Tá Khánh

No comments:

Post a Comment