Wednesday, November 26, 2025

Tản Mạn Nhân Mùa Lễ Tạ Ơn

Người viết: Phùng Annie Kim
Bài số 4066-14-29466vb5112113
Tác giả sinh năm1949, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991. Nghề nghiệp trước 75: dạy học. Công việc làm ở Mỹ: du lịch. Hiện đã hưu trí và là cư dân vùng Little Saigon, Westminster, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà năm 2013 là "Kock and Me / Vi trùng lao và Tôi." Sau đây là bài viết thứ bẩy của Bà.
* * *

Mùa lễ Tạ Ơn đang đến. Hồi còn học trung học, tôi học thêm tiếng Anh ở Hội Việt Mỹ. Tôi nhớ hoài quyển sách “Lets learn English” trong đó có một bài viết về ngày lễ Tạ Ơn. Bài có bức hình minh họa một gia đình Mỹ gồm hai vợ chồng và hai đứa con, một trai, một gái đang ngồi quay quần quanh chiếc bàn ăn.Cả gia đình ai cũng tươi cười, có khuôn mặt đẹp, thanh tú như đôi mắt to, sóng mũi cao, nét mặt đúng là…Mỹ. Họ ăn mặc chỉnh tề. Cậu con trai còn nhỏ mà đã được thắt cái cà-vạt. Đẹp nhất là cô con gái có cái áo đầm hoa, tay phồng, kết ren, mái tóc cột lên như cái đuôi gà sau ót. Trên bàn có nhiều món ăn nhưng đặc biệt có con gà tây thật to, nằm ngửa đặt trên dĩa ở giữa bàn, hai cái đùi chổng lên, không có chân.

Đó là những hình ảnh đầu tiên tôi biết về về ngày Lễ Tạ Ơn qua sách Mỹ. Trong trí tưởng tượng của một cô học trò lớp mười, đó là hình ảnh về những người Mỹ lịch sự, sang trọng (quần áo đẹp, thắt ca-vát), về một đất nước giàu (nhà bốn người mà ăn một con gà tây và một bàn đầy các dĩa thức ăn), về gia đình người Mỹ ít con (chỉ có hai trong khi gia đình tôi chín anh chị em) về tục lệ “cám ơn” mà ba má tôi thỉnh thoảng nhắc nhở. Tôi đã ước mơ về một phương trời xa lạ, một đất nước xa xôi có con gà tây. Phải chi có một ngày nào mình được đặt chân đến xứ Mỹ!

Tiếng Mỹ có từ ngữ “enjoy” thật hay. Tiếng Việt phải dùng nhiều từ mới diễn đạt hết ý nghĩa của từ này. Từ ước mơ đến xứ Mỹ lúc còn trẻ cho đến khi ước mơ thành sự thật, từ hình ảnh con gà tây trong ảnh cho đến khi nhìn thấy con gà tây thật trong ngày lễ Thanksgiving, phải mất… ba mươi năm. Ba mươi năm tôi mới được đặt chân đến nước Mỹ, được vui chơi, hưởng thụ, thưởng thức, cảm nhận, trải nghiệm và… “enjoy” Thanksgiving đầu tiên ở Mỹ là năm 1991, lúc đó tôi đã ngoài bốn mươi.

Tôi tự an ủi: “Mới hơn… nửa đời người. Còn trẻ chán!”

Tháng đầu tiên, tôi ở nhà người bảo trợ là cô Lương và chú Nam. Chú là em ruột của chồng tôi. Đi theo diện HO, nếu không có thân nhân ở Cali thì gia đình tôi sẽ được một gia đình người Mỹ ở tiểu bang xa xôi nào đó bảo trợ rồi. Làm gì mà được hưởng thời tiết đẹp và tình người của “Cali nắng ấm tình nồng”?

Nhà có một phòng trống, một giường dành cho hai đứa con, bố mẹ ngủ dưới thảm. Một tháng đủ để vợ chồng cô chú hết lòng giúp đỡ bước đầu như lo giấy tờ làm thẻ xanh thường trú, chở đi khám sức khỏe, đi thăm bà con, đi chợ Mỹ, đi shopping, học lái xe, học cách sử dụng đồ dùng trong nhà bếp, học cách đi bộ qua đường, học cách xài tiền Mỹ, sử dụng thẻ tín dụng, rút tiền mặt, account ngân hàng, học tiếng Mỹ…

Một tháng tuy ngắn ngủi nhưng gia đình tôi làm quen dần với các tục lệ và hội nhập với đời sống Mỹ như phải xếp hàng, phải biết nói “thank you”, không gắp thức ăn chung bằng đũa của mình khi đi ăn tiệc, không nói ồn ào trong đám đông, không khạc nhổ hay xả rác bừa bãi, lỡ đụng chạm ai phải biết nói lời xin lỗi, tôn trọng phụ nữ vì “lady first”, quý trọng trẻ con nhưng trẻ con ở đây phải cẩn thận, không được nựng nịu tự nhiên như trẻ con bên nhà, không đánh chó, đập mèo và còn biết bao điều mới mẻ về nước Mỹ phải từ từ làm quen và học tập theo thời gian v…v.

Tôi nhớ căn phòng ở khu Irvine, gia đình bốn người chúng tôi quây quần trong không gian nhỏ hẹp này. Buổi chiều nhìn ra hồ bơi màu xanh biếc mà nhớ chuyến đi chơi ở bãi biển Vũng Tàu trước khi đi Mỹ. Trước giờ đi ngủ là lúc vợ chồng con cái kể cho nhau nghe những điều mới lạ học ở xứ Mỹ trong ngày và nhắc lại những kỷ niệm thời xa xưa ở Việt nam.

Cô chú Nam Lương là nhịp cầu nối đầu tiên giữa gia đình chúng tôi với xứ Mỹ. Tục ngữ có câu “Chị em dâu đánh nhau vỡ đầu”. Quan hệ giữa tôi và cô em dâu từ hồi ở Việt nam không “đánh nhau vỡ đầu” mà trái lại có mối giao tình tốt đẹp. Cô là người hiền lương như cái tên. Chú vui tánh hay nói chuyện tiếu lâm. Cô chú là những người tốt. Cái ơn đầu tiên ở xứ Mỹ là cái ơn tình sâu nghĩa nặng trong gia đình huyết thống của chồng tôi. Tôi không bao giờ quên.

Tháng sau, vì sự học của hai đứa con, gia đình tôi dọn lên Laguna Hills, “share” hai phòng trong ngôi nhà lớn của cô em chú bác là cô Niên và chú Trung. Ở đây có trường học tốt cho đứa con trai lên mười vô lớp năm và đứa con gái mười tám học lại lớp mười hai. Tục ngữ bình dân có câu “Nghèo mà ham!”. Đôi khi tôi ngẫm nghĩ câu này…đúng chớ đâu có gì sai! Vì nghèo nên người ta mới ham muốn, thèm khát. Trường hợp của tôi thì khác. “Nghèo mà…sang!”. Chân ướt chân ráo mới qua Mỹ mà leo tuốt lên… đồi tận Laguna Hills. Con cái cho học trường toàn là học sinh Mỹ trắng, con nhà giàu. Học sinh đầu đen đếm trên đầu ngón tay. (Tôi có đếm thật, mỗi lúc đưa đón mấy đứa nhỏ ở trường về). Vợ chồng cô chú chân thành mời gia đình tôi về ở hai phòng mà chỉ góp có ba trăm đô tiền nhà. Cô chú muốn giúp chúng tôi dành dụm tiền và có trường tốt cho con cái học hành. Ăn uống thì mỗi gia đình thay phiên nhau đi chợ. Tôi dùng foodstamps đi chợ Việt nam và là đầu bếp nấu các món ăn Việt nam cho cả nhà. Cô đi chợ Mỹ nấu thức ăn theo kiểu Mỹ cho mấy đứa nhỏ trong đó có thằng con trai của tôi bắt đầu quen với thức ăn Mỹ. Cô bao tiền điện, nước, gaz. Cô chú hiền hòa, cư xử tế nhị, quý trọng anh chị và các cháu. Sau một năm, cô chú bán nhà, chuẩn bị theo hãng dọn qua Oklahoma, gia đình tôi dọn về Santa Ana thuê một “apartment” hai phòng chín trăm đồng. Nhờ dành dụm chút tiền, tôi mở một tiệm bán vé máy bay khu Westminster. Chúng tôi chia tay nhau mà cả hai gia đình đều bùi ngùi, lưu luyến.

Tôi còn nhớ ba đứa cháu: Uyên mười tuổi, Thomas tám và Helen sáu, đứa nào cũng ngoan và lễ phép, suốt ngày quấn quít bên bác Phong. Sau này, cô có bầu thêm đứa thứ tư. Chú đi làm hãng Rockwell, sáng đi sớm, chiều về. Giờ chú sắp về là giờ cô đi làm hãng điện ca chiều cho đến gần sáng. Khoảng thời gian từ hai đến năm giờ, từ ngày có gia đình tôi về ở chung, chúng tôi giúp cô chú đưa đón thêm thằng con, tổng cộng bốn đứa trẻ, trông chừng chúng ăn uống và làm “homework”. Một năm ở Laguna Hills, hai đứa con tôi tiếp xúc, học hành với người Mỹ, bạn bè Mỹ, tiếng Mỹ tỏ ra tiến bộ rõ rệt. Hai vợ chồng tôi học Anh văn và ghi danh vài “unit” môn “booking” vé máy bay ở Saddleback College. Chiều tối, cả nhà bận rộn với “homework”.

Tôi hay đùa cặp này là “Ngưu Lang Chức Nữ” vì ban ngày chú đi làm, cô ngủ. Chú ngủ thì cô còn ở hãng. Họ chỉ gặp nhau trọn vẹn vào cuối tuần. Chúng tôi may mắn sống những ngày tháng đầu tiên với những người thân tốt bụng. Ngày lễ tạ ơn đầu tiên, tôi đứng ở sân sau của ngôi nhà đẹp và sang trọng của cô chú trên sườn đồi, nhìn xuống thung lũng, nhớ đến ngôi nhà nhỏ của tôi ở đường Nguyễn Thiện Thuật bây giờ sao mịt mù, xa xăm quá!

Vào ngày lễ Tạ Ơn, cô chú đứng ra làm chủ xị, tổ chức một buổi tiệc linh đình, khoản đãi bà con họ hàng hơn ba mươi người đến họp mặt, có đủ các món ăn Mỹ, Việt như gà tây, bánh bí, rau trộn, gỏi sen, chả giò, tôm chiên, súp cua …để mừng gia đình anh chị Phong đến Mỹ. Năm sau, cũng mùa Thanksgiving, chúng tôi dọn về Santa Ana. Một lần nữa, tôi mang thêm một cái ơn tình sâu nghĩa nặng với cặp vợ chồng cô Niên, chú Trung. Hai cặp cô chú là những “quý nhân” đã “phò trợ” gia đình tôi trong bước đầu lập nghiệp.

Thế là từ bức ảnh con gà tây “hai đùi chổng lên, không có chân” trong ký ức thời niên thiếu, trong bữa tiệc Thanksgiving tại xứ Mỹ, tôi được nhìn thấy nó bằng mắt, được vinh hạnh cắt những lát gà tây đầu tiên đặt trên dĩa của mọi người. Con gà được đặt mua và nướng tại chợ Mỹ, nặng hai mươi lăm pounds, giá hơn bốn chục đồng, đặt trên cái khay lớn, vẫn là “ hai đùi chổng lên, không có chân”, da nướng vàng, bóng lưỡng và mùi bơ thơm phức.

Ở Mỹ, công ty “Butterball” là công ty sản xuất gà tây lớn nhất, trụ sở đặt tại Garner, North Carolina sản xuất một tỉ pound gà tây mỗi năm bằng 20% tổng số sản lượng toàn quốc. Công ty này có nhãn hiệu như cái dĩa hình bầu dục nền vàng, nổi bật hàng chữ xanh “ Butter ball” là sản phẩm tiêu biểu và quen thuộc của các gia đình Mỹ trong dịp lễ Thanksgiving hằng năm.

Theo thống kê của hội bảo vệ súc vật PETA, mỗi năm vào ngày lễ Tạ Ơn, người Mỹ tiêu thụ một trăm bảy chục triệu con gà tây trong đó có một con, theo tục lệ, sẽ được vị Tổng Thống ở tòa Bạch Ốc tha chết vào ngày lễ này.

Ăn gà tây theo truyền thống Mỹ phải có “stuffing”.Tôi học món “stuffing” và “gravy” từ bà giáo dạy ESL. Đây là một món nướng gồm có bánh mì “sandwich” cắt vuông, cần, hành tây, nấm xào với bơ, trộn với nước sốt gà, thêm tiêu,muối thành một hỗn hợp hơi đặc rồi đem nướng. Sauce “gravy” ăn chung với gà làm bằng nước gà nướng gọi là “drippings”,trộn với nước súp gà, bơ, kem, sữa, bột bắp hay bột mì quậy lên, đun sôi thành một chất sền sệt màu nâu rưới lên miếng thịt. Có người thích loại “cranberry sauce” làm bằng dâu đỏ.Có người thích khoai tây nghiền có mùi tỏi. Salad, khoai lang, bắp, bánh táo…là những món không thiếu được trong bữa ăn Thanksgiving.

Con gà tây trông hấp dẫn thật nhưng khi ăn những lát thịt trắng, nhạt và khô, dù có kèm theo nước sốt vẫn không đậm đà, ướt át, mềm mại như gà đi bộ ướp và nướng theo kiểu Việt nam. Thế mới biết khẩu vị mỗi người, mỗi nơi mỗi khác. Vì vậy có nhiều gia đìnhViệt nam làm món gà mái nhỏ còn gọi là con “hen” nướng hoặc quay. Có gia đình chỉ chơi mỗi món… cánh. Cánh gà chiên bơ hay cánh gà chiên… nước mắm có mùi vị quê hương thay cho gà tây trong ngày lễ Tạ Ơn cũng là sự thay đổi cho hợp khẩu vị trong ẩm thực của người Việt vào ngày lễ này.

Thôi thì dù con hay cánh, gà tây hay gà ta, cũng là…gà. Khẩu vị cũng chỉ là thói quen lâu ngày “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Tôi còn nhớ sau khi ăn uống xong, trong lúc “trà dư tửu hậu” đến màn chị em tâm sự, các cô em “phỏng vấn” những người di dân chân ướt chân ráo “newcomers” như chúng tôi về ngày lễ Thanksgiving đầu tiên ở Mỹ. Cảm hứng về con gà tây, tôi xuất khẩu thành bốn câu thơ con cóc:

Ta về ta “xực”gà ta
Gà ta tuy nhỏ nhưng mà thịt ngon
Gà tây tuy có lớn con
Thịt khô, nhạt phếch lại còn nặng “đô”


Từ Việt nam mới qua, mỗi lần xài tiền Mỹ, tôi có thói quen tính ra tiền Việt nam hoặc quy ra vàng. Lúc bấy giờ, ăn con gà tây hơn bốn chục đô gần bằng một… chỉ vàng. Số tiền đó quá lớn đối với người tị nạn như tôi chưa biết làm gì ra tiền. Chắc vì tiếc tiền nên nguồn thơ của tôi “tuôn trào lai láng”… chỉ có thế.

*
“Thanks” là những lời cám ơn. “Giving” là cho. Năm 1620, chiếc tàu “Mayflower” chở những người “Pilgrims” là những người Anh định cư đầu tiên. Vì sự bạc đãi về tôn giáo, họ đã di cư đến vùng đất mới còn gọi là Tân Thế giới. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, họ đến được đất liền và được những người thổ dân da đỏ cung cấp thức ăn. Khi cuộc sống ổn định, mùa màng thu hoạch tốt, họ làm lễ Tạ Ơn đến Thiên Chúa đã “cho” họ nhiều “ơn” phước như có cuộc sống no đủ, an lành, đến những người thổ dân cưu mang họ lúc đầu khó khăn. Truyền thống lễ tạ ơn “ Thanksgiving” ở Mỹ bắt nguồn từ đó.

Trải qua nhiều thế kỷ, ngày Lễ Tạ Ơn ở Mỹ còn là ngày cầu nguyện, họp mặt gia đình, ăn uống, vui chơi, bắt đầu mùa mua sắm cho lễ Giáng sinh sắp tới.

Lịch sử Việt nam, tổ tiên ta có tục lệ tế lễ Trời Đất cũng là một hình thức lễ tạ ơn. Truyện người con của vua Hùng Vương thứ sáu là Tiết Liêu hiền lành, đạo đức nằm mộng thấy Thần hiện ra chỉ cho cách làm lễ vật dâng vua. Gạo là thực phẩm nuôi sống con người.Thần dạy cho Tiết Liêu lấy nếp làm vỏ ngoài, giữa bánh có nhân, dùng lá gói, nén thành hình vuông tượng trưng cho Đất gọi là bánh chưng.Thần chỉ cách giã xôi thành bánh,vo thành hình tròn tượng trưng cho Trời gọi là bánh dầy. Nhờ hai thứ bánh giản dị và có ý nghĩa, Tiết Liêu được vua truyền ngôi báu.Từ đó, Vua cho dùng hai thứ bánh chưng, bánh dầy trong ngày Tết Nguyên Đán là ngày Tết truyền thống để nhớ ơn Trời Đất, ông bà tổ tiên.

Vua Quang Trung cũng có làm lễ tạ ơn. Ngày mùng năm tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789, sau khi chiếm được Hà hồi, Ngọc Hồi, Vua ra lệnh tiến vào thành Thăng Long đánh tan hai mươi vạn quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín mà chạy về Tàu. Sầm Nghi Đống tử trận. Nhà vua làm lễ kính cáo, tạ ơn Trời Đất, cho quân lính và nhân dân ăn mừng mùa xuân chiến thắng trong lịch sử chống ngoại xâm.

Triều đình nhà Nguyễn cũng có tục lệ làm lễ tạ ơn. Dưới chế độ phong kiến, vua là thiên tử thay Trời trị dân nên vua thay dân đăng đàn chủ tế tại đàn Nam Giao ở Huế để tạ ơn Trời Đất và các vị tiên đế, cầu xin mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Người Việt có tục lệ rất có ý nghĩa là cúng giao thừa nửa đêm vào dịp Tết Nguyên Đán. Chiếc bàn thờ nhỏ với khói hương nghi ngút, hoa, đèn, bánh trái, vào thời khắc giao hòa giữa năm cũ và năm mới, trong tiếng pháo nổ rền vang, người chủ nhà chắp tay đứng giữa trời, gửi lời tạ ơn đếnTrời Đất, cửu huyền thất tổ, ông bà nội ngoại hai bên xin phù hộ cho con cháu được một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.

Đạo Phật coi trọng bốn ơn sâu nặng đó là ơn Cha, Mẹ và ơn Thầy, Tổ. Người đi tu trong chùa còn mang thêm một ơn rất nặng khác đó là ơn của đàn na thí chủ đã bố thí cúng dường cho mình có phương tiện tu. Một hạt gạo cũng là vật thực giúp mình ăn để sống, để tu làm lợi cho chúng sinh.Người tu, mỗi khi nghĩ đến ơn này, phải dốc lòng tu học đạo giải thoát, đừng dễ duôi, phóng dật mà mang tội. Kiếp này không trả thì kiếp sau làm trâu ngựa để đền đáp. Nghĩ như thế thì lo tu, biết tiết kiệm của cải của thí chủ nhất là biết ơn.

Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo rất gần với người dân miền Nam còn có tên là Phật Giáo Tứ Ân. Phật giáo Hòa Hảo dạy các tín đồ “Tứ Ân hiếu nghĩa” là bốn ơn: tổ tiên và cha mẹ, ơn đất nước, ơn Tam Bảo, ơn đồng bào và nhân loại. Sống ở đời, người nào mang được bốn ơn này là người đạo đức, có hiếu, có nghĩa.

Natalie, con gái tôi theo đạo Công giáo. Mỗi bữa ăn, gia đình Natalie đều làm dấu thánh giá. Có khi gia đình đọc kinh tôi chỉ nghe lõm bõm. Tôi bảo đứa cháu ngoại là Dustin đang học tiếng Việt đọc cho bà ngoại nghe bài kinh. Dustin học thuộc lòng và đọc lưu loát. Đó là bài kinh tạ ơn Thiên Chúa đã cho lương thực hàng ngày. Người Công giáo tạ ơn Chúa mỗi ngày qua những bữa ăn. Đây là một truyền thống đẹp.

Trong sách “Quốc văn giáo khoa thư” kể câu chuyện về Carnot. Ông là kỹ sư, nhà vật lý người Pháp nổi tiếng với nhiều phát minh trong ngành cơ khí. Một hôm, ông trở về trường cũ thăm thầy.Cả nước Pháp đều biết tên của con người tài ba này nhưng thầy không biết ông là ai. Ông đến gặp vị Thầy già và thưa với Thầy rằng: “Thưa Thầy, con là Carnot, học trò cũ ngày xưa của Thầy đây”.

Những câu chuyện nhỏ dạy về sự biết ơn vẫn là những bài học về luân lý, giáo dục có giá trị đạo đức làm cho chúng ta cảm động.

Thời phong kiến, các nước Đông phương như Trung Hoa, Việt nam rất quý trọng Thầy và biết ơn Thầy. Quan niệm “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy. Thầy đứng hàng thứ hai chỉ sau vua và trên cả cha: “quân,sư,phụ”.Theo chiều hướng của lịch sử, quan niệm này bây giờ đã lỗi thời. Nước Mỹ là đất nước kiểu mẫu cho nền dân chủ trên thế giới cho nên “dân” là “chủ”.Thầy ở xứ Mỹ cũng là bạn của trò, chia sẻ với trò về kiến thức trong học tập.Quan hệ của thầy trò dựa trên sự tương kính và chu toàn nhiệm vụ của hai bên nhiều hơn là sự mang ơn theo truyền thống “tôn sư trọng đạo” ngày xưa.

Ngày lễ Mẹ (Mothers Day) cũng là ngày lễ truyền thống của Mỹ để nhớ ơn các đấng sinh thành đã cho ta hình hài này. Đạo Phật có tục lệ bông hồng cài áo trong ngày lễ Vu Lan. Tục ngữ ta có câu “nước mắt chảy xuôi” cho nên các bậc làm cha mẹ Việt nam ở xứ Mỹ đừng mong cầu gì nhiều ở con cái. Được một ngày các con dành cho cha mẹ là quý lắm rồi mặc dù tình thương cha mẹ dành cho con “bao la như biển Thái Bình” và công ơn “cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển. Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.”Chừng nào mình nhắm mắt buông tay thì nước mắt mới ngừng chảy.

Người Việt còn có truyền thống mang ơn Thầy, Tổ là người sáng lập và có công truyền bá ngành nghề cho đệ tử. Lịch sử các vị Thầy, Tổ này nhiều lắm không sao kể hết. Phái võ Thiếu Lâm thờ Tổ Bồ đề Đạt Ma vì Ngài là người khai sáng môn võ Thiếu Lâm dạy cho các chư tăng trong chùa. Môn võ sau này lan rộng trong quần chúng. Ngày nay môn võ này vẫn được truyền thừa và đệ tử vẫn nhớ ơn Tổ. Tổ còn là một Thiền sư nên các Thiền viện đều có thờ Ngài sau chánh điện.

Ngành cải lương cũng làm lễ tạ ơn Thầy Tổ vào ngày mười hai tháng tám âm lịch. Theo ông Trần Quang Hải, tổ ngành cải lương là Tống Hữu Định, dòng dõi công thần nhà Nguyễn. Ông là một danh sĩ hào hoa phong nhã, nổi tiếng ăn chơi,yêu thích văn nghệ.Tuồng cải lương đầu tiên diễn ở nhà ông với biệt danh là ông Phó Mười Hai vì ông từng là Phó Tổng và thứ bậc mười hai trong gia đình.

Tổ ngành hát bội hay còn gọi là hát bộ (vì khi diễn phải ra điệu bộ) là ông Đào Tấn ở Bình định người có công sáng tác nhiều vở tuồng cổ.

Tổ ngành hát chèo là bà Phạm thị Trân. Bà là phụ nữ xinh đẹp, tài sắc, hát hay được tiến vào cung. Vua Đinh Tiên Hoàng yêu mến, giao cho việc dạy lính múa hát, đánh trống, gảy đàn, diễn các tích gọi là hát trò, sau gọi là hát chèo.

Công chúa Thiều Hoa, con thứ sáu của vua Hùng Vương xinh đẹp, hiền thục nhưng không lấy chồng. Bà dạy dân trồng dâu, chăn tằm, kéo sợi, dệt vải. Dân chúng làm nghề dệt vải nhớ ơn và thờ bà là Tổ ngành dệt.

Ngày giỗ Tổ ngành thêu là ngày hai mươi hai tháng giêng âm lịch. Tổ ngành thêu là ông Lê Công Hành đỗ tiến sĩ, đi sứ, bị vua quan Tàu giữ lại, bắt nhốt. Ông tìm cách học nghề thêu. Khi được tha về, ông truyền nghề này cho dân chúng. Nghề thêu ở Việt nam ra đời và phổ biến từ đó.

Tổ ngành kim hoàn được ghi lại là ông Cao đình Độ và con là Cao đình Hương. Hai ông học nghề kim hoàn của một gia đình người Hoa.Tài nghề của hai cha con rất giỏi được triều đình nhà Nguyễn trọng dụng. Khi chết, hai cha con đều được vua sắc phong. Ngày nay mộ còn thờ ở Phú Cát Huế. Những người làm nghề kim hoàn lấy ngày giỗ là ngày hai mươi bảy tháng hai âm lịch để ghi nhớ công ơn Tổ.

Khu Phước Lộc Thọ ở phố Bolsa nổi tiếng là khu bán nữ trang. Ngày giỗ Tổ, các chủ tiệm kim hoàn cúng lớn có heo quay, múa lân, văn nghệ…Giữ được truyền thống nhớ ơn các bậc tiền bối là nét đẹp về văn hóa. Các ngành nghề gìn giữ truyền thống giỗ Tổ của nghề mình như thế là làm đẹp cho nét văn hóa của nước Việt.

Trong văn học, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng phản ánh truyền thống nhớ ơn này qua nhân vật Thúy Kiều. Sau khi về sống với Từ Hải,Thúy Kiều thỏ thẻ với Từ Hải: “Nàng rằng nhờ cậy uy linh.Hãy xin báo đáp ân tình cho phu”. Nhớ lại người ơn đã cưu mang, che chở cho nàng ở chốn lầu xanh, Kiều đã tặng cho chàng Thúc Sinh: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân.Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”. Đối với bà quản gia nhà Hoạn Thư và bà vãi Giác Duyên đã giúp đỡ, bao bọc, Kiều đã hậu tạ: “Nghìn vàng gọi chút lễ thường. Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân”. Kiều nhắc đến điển tích Hàn Tín lúc còn nghèo được bà Phiếu mẫu làm nghề dệt vải cho cơm ăn. Khi giúp Hán Cao Tổ xây dựng được nhà Hán và được phong là Sở Vương, Hàn Tín nhớ ơn bà Phiếu mẫu nên tặng bà ngàn lượng vàng.

Nhắc đến Thúy Kiều chốn lầu xanh mới biết giới “chị em ta” cũng có Tổ và nhớ ơn Tổ bằng cách mua hoa cúng Tổ. Tổ của nghề này là vị thần có đôi lông mày trắng còn gọi là thần Bạch Mi. “Giữa thì hương án hẳn hoi.Trên treo một tượng trắng đôi lông mày”.Nguyễn Du kể “chị em ta” “hương hoa khuya sớm phụng thờ. Cô nào xấu vía có thưa mối hàng”.Sau khi cúng hoa mới, họ lấy hoa cũ đem lót xuống chiếu sẽ “bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi”. Khách làng chơi chắc phải… “get in line”!

Tổ ngành điện chắc chắn không phải…người Việt nam. Edison, công ty điện lực nổi tiếng được lấy tên ông ở quận Cam. Ông là người phát minh ra những ứng dụng về điện trong sinh hoạt hàng ngày như bóng đèn, động cơ điện, máy phát điện… Dù không có ngày giỗ Tổ như Việt nam, nhắc đến Edison, người Mỹ và người Việt nam đều nghĩ đến công ơn của nhà khoa học tài ba lỗi lạc này. Những phát minh của ông đã làm thay đổi bộ mặt của nước Mỹ và cả thế giới.

Vừa rồi tôi lan man kể chuyện về ngày lễ Tạ Ơn ở Mỹ. Ngày lễ này có những điểm tương đồng với văn hóa Việt về mặt lịch sử, văn học, xã hội, tôn giáo...“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Uống nước nhớ người đào giếng”. Ca dao, tục ngữ phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, tình cảm chân thành và mộc mạc của người Việt nam, đó là truyền thống “biết ơn” và “nhớ ơn”. Không những thế, truyền thống này còn nhắc nhở người khác phải biết nhớ ơn “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” nhưng cũng biết quên cái ơn mình đã làm vì “thi ân bất cầu báo”. Làm ơn rồi không cần đáp đền, chỉ biết đó là việc tốt mình phải làm mà thôi.Truyền thống biết ơn này lên án những kẻ “ăn cháo đá bát”, “qua sông rút cầu”, “được chim quên ná, được cá quên nơm” là những kẻ vong ân bội nghĩa. Xã hội nào cũng có loại người này.

Tôi biết có những người chỉ cám ơn xã giao, xem hai tiếng “cám ơn” như hai tiếng ở đầu môi chót lưỡi.Tôi thực tập một thói quen, khi cám ơn ai, tôi để tâm thành của mình trong hai tiếng “cám ơn” gửi đến người nhận.Tuy nhiên, có khi “quên”, miệng nói “cám ơn” mà đầu óc để đâu đâu hoặc miệng nói “cám ơn” mà không “biết” mình đang nói cám ơn với người ơn của mình.

Ngày lễ Tạ Ơn, tôi chân thành nghĩ đến những người thân gần nhất của tôi. Tôi cám ơn Cha, Mẹ đã cho tôi hình hài, nuôi dạy tôi khôn lớn, các vị Thầy, Cô giáo đã cho tôi chữ nghĩa, kiến thức, các anh chị em đã cho tôi tình thương trong gia đình ruột thịt, các bà con họ hàng hai bên nội ngoại đã cưu mang, giúp đỡ khi tôi gặp khó khăn, trở ngại trên bước đường đời.

Tôi cám ơn ông chồng tốt, người bạn đời cùng song hành với tôi suốt bốn mươi năm, người cha gương mẫu của các con tôi. Tôi cám ơn các con tôi đã cho tôi biết thế nào là “Lòng Mẹ”để tôi thương mẹ tôi và thương các con tôi nhiều hơn.

Tôi cám ơn những người bạn dù thân hay sơ, các bạn là một phần của đời tôi. Các bạn cho tôi, dù ít hay nhiều một món quà vô giá đó là kỷ niệm. Tôi trân quý và sống nhiều với kỷ niệm.

Tôi cám ơn những vị bác sĩ đã có lòng chữa bệnh cho tôi như một “lương y như từ mẫu”. Bác sĩ Webstern người đã chữa bệnh lao, bác sĩ Miliken, người đã hai lần mổ phổi, họ đã cùng với hệ thống y tế hiện đại ở xứ Mỹ như y tá, bệnh viện, thuốc men, trang thiết bị y khoa nhất là tấm lòng, dành lại sự sống cho tôi từ bàn tay tử thần. Không có quý vị, tôi không được ngồi đây gõ những dòng chữ này.

Nếu phải cám ơn cho đầy đủ và quán chiếu từng sự việc trong sinh hoạt mỗi ngày của bản thân, tôi mang ơn nhiều điều, nhiều người không quen, không biết tên và… không sao kể xiết. Tôi mang ơn không khí của bầu khí quyển, tia nắng sớm của ánh mặt trời, sự bình an của người lính, hạt cơm của người nông dân, manh áo của người dệt vải, giọt nước của người đào giếng, sách vở của người thợ trồng cây nuôi rừng, cầu, đường của người công nhân, con gà tây của người chăn nuôi, viên thuốc của nhà nghiên cứu, bào chế …và biết bao nhiêu món nợ cứ thế mà “cái này có thì cái kia có”, “trùng trùng duyên khởi”. Những cái “nợ đồng lần” ấy, tôi chưa trả hết và tôi vẫn nhận mỗi ngày. Vì vậy, những cái ơn cứ thế chồng chất mãi và kéo dài cho đến khi tôi nhắm mắt lìa đời, tôi vẫn còn nợ, vẫn mang ơn.

Tôi không chỉ cám ơn nước Mỹ vào ngày lễ Tạ Ơn. Tôi đã cám ơn nước Mỹ cách đây ba mươi năm, từ khi nhận được giấy bảo lãnh của chú em gửi về, tờ giấy “Loi” (Letter of Introduction) của Sở Di trú Mỹ. Nó là chiếc phao cứu hộ đầu tiên mang đến cho gia đình tôi niềm tin và hy vọng đi Mỹ diện bảo lãnh trước khi có chương trình HO.

Hai mươi hai mùa Thanksgiving trôi qua. Thật là một chặng đường dài cho những người di dân như chúng tôi đến Mỹ bằng hai bàn tay trắng với những ước mơ. Cám ơn nước Mỹ, cám ơn cuộc đời, cám ơn những người đã giúp tôi biến ước mơ đến… xứ sở của con gà tây thành sự thật.

Kahlil Gibran, nhà thơ, nhà văn và là một nghệ sĩ người Lebanon, ông viết:

“Wake at dawn with winged heart
And give thanks for another day of loving”


Lời dịch của ai đó thật hay:

“Cám ơn đời mỗi sáng mai thức dậy
Để có thêm ngày nữa để yêu thương”


Chúng ta nợ ơn đời và ơn người. Mùa Thanksgiving, chúng ta đem lòng biết ơn và tình thương đến cho những người ơn và những người thân quanh ta. Cầu chúc cho tất cả vui hưởng ngày lễ Tạ Ơn nhiều an lành và tràn đầy ơn phước.

Phùng Annie Kim 

Thursday, November 13, 2025

Bài Ca Tình Nhớ Julio Iglesias Les Derobades


Ou tu m'aimes, ou tu me quittes,

mais ce soir il faut choisir.

Ne dis pas que tu hésites;

tu fais mal pour le plaisir...

 

Le plaisir de voir un homme

comme un jouet dans tes mains,

que tu laisses pour personne

et vas retrouver pour rien.


Moi je n'en peu plus de tous tes caprices,

des jours où tu m'aimes, des jours où je glisse,

tout au fond de l'ombre, tout au bout du vide,

de ces nuits trop longues où mon cœur se ride

 

Je n'ai plus la force de toujours t'attendre.

Solide est l'écorce mais le bois est tendre.

Ma vie se disloque. Je me barricade...

Ce soir, je me moque de tes dérobades!

 

Je veux lire entre les lignes,

deviner entre les mots.

Je m'accroche au moindre signe

naufragé sur ton radeau

 

Je ne suis qu'un fou, peut-être,

et tu joues de mon amour

comme avec ces marionnettes

dont l'enfant se lasse un jour

 

Moi je n'en peu plus de tous tes caprices,

des jours où tu m'aimes, des jours où je glisse,

tout au fond de l'ombre, tout au bout du vide,

de ces nuits trop longues où mon cœur se ride.

 

Je n'ai plus la force de toujours t'attendre.

Solide est l'écorce mais le bois est tendre.

Ma vie se disloque. Je me barricade...

Ce soir, je me moque de tes dérobades!

Wednesday, November 12, 2025

Đại Hội 1 Nha Kỹ Thuật Houston Texas 1989

Tổng Hội Nha Kỹ Thuật.B.TTM.QLVNCH.Hải Ngoại
6709 Blackberry Dr. Arlington,TX.76016
Điện thoại: 817-992-6459-Email ytanvo@hotmail.com
 
Thông Báo (Nội Bộ NKT)
 
 
Kính gửi:
             -Quý Niên Trưởng Nha Kỹ Thuật Hải Ngoại
             -Quý Chiến Hữu Nha Kỹ Thuật Hải Ngoại
   
Chi phí cho một ngày tang lễ quá cao, nay Tổng Hội kêu gọi sự giúp đỡ quý Niên Trưởng, quý Chiến hữu mổi người một ít tiền để phụ giúp cho tang lễ một NT.NKT vừa qua đời.
 
Sự giúp đỡ xin gởi qua Zelle:
Hoa Pham (310- 245-2284)
Được sự ủy nhiệm của Tổng Hội.
 
Trân trọng kính Xin sự giúp đỡ
Võ Tấn Y
THT.NKT.Hải Ngoại
 
Danh sách đóng góp cập nhật:
- TH Toàn Hạnh $100.00 *
- HL Nguyễn Toàn D71 $100.00 *
- HL Võ Tấn Y D68 $100.00 *
- KQ Trường Sơn Lê Xuân Nhị $100 z
- LH Lưu Văn Thuần SLL/NKT $100.00 c
- HD Bùi Thượng Khuê NKT $50.00 pp
- THNKT $200.00*
- HL Nguyễn Ngọc Á 71 $50.00 c
- HL Thầy Hải Đoàn 75 $50.00 c
- Phạm Hòa $100.00

Tổng Cộng $950.00
 

Tuesday, November 11, 2025

Căn cứ Thiện Ngôn và Tiểu Đoàn 87 Biệt Động Quân – Trần Lý

 (Trong số những Trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thiết lập tại Việt Nam trong những năm 60-70, có những Trại đã trở thành rất nổi tiếng với các trận đánh khốc liệt như Pleime, Tống Lê Chơn, Đức Huệ … Căn cứ Thiện Ngôn, tuy ít được biết đến, nhưng cũng cũng là một vị trí khá quan trọng .. Bài này xin được viết về Căn cứ này cùng Tiểu đoàn 87 BĐQ Biên Phòng là đơn vị đã được thành lập từ các dân sự chiến đấu tại Thiện Ngôn chuyển sang )

Căn cứ Thiện Ngôn hay tên ban đầu là Trại Dân Sự Chiến Đấu Thiện Ngôn là một trại DSCD được xây dựng từ Trại Bi , Trại đầu tiên mà LLĐB Hoa Kỳ (SF), toán A-323, thiết lập trong khu vực Chiến khu C của CQ (25 tháng 6 năm 1966). Trại Bi nằm sâu khoảng 6 cây số bên trong CK C ,, phía Tây núi Bà Đen, và từng là nơi xẩy ra các cuộc đụng độ giữa CQ và TĐ 35 BĐQ, mỗi khi TĐ tăng viện cho Trại. Trại Bi nằm trên QL 22 cách Tây Ninh khoảng 23 km về phía Bắc Tây-Bắc và 20 km phía Tây-Bắc núi Bà Đen , chặn đường chuyển vận của CQ trong khu vực.. Trại liên tục bị pháo kích và tấn công phá rối trong suốt năm 1967. SF đã quyết định xây dựng một Căn cứ mới vững chắc và rộng rãi hơn tại Thiện Ngôn. Trại mới này do TĐ 588 Công Binh HK xây cất và CQ đã tấn công khu vực này nhiều lần ngay khi trại chưa hoàn thành ! Trại Thiện Ngôn hoàn tất và chính thức hoạt động ngày 22 tháng 2 năm 1968 với nhân sự từ Trại Bi chuyển sang Thiện Ngôn trở thành một khu vực chiến lược bao gồm một trại SF, một trại DSCĐ có sân bay trực thăng bên trong trại, một sân bay bay nhỏ ngoài trại và một căn cứ hỏa lực riêng biệt.

Trại DSCĐ cách trại SF khoảng 1 km và cả hai cách Tây Ninh chừng 34-35 km về phía Bắc Tây-Bắc , cách Katum 25 km về phía Tây Tây-Nam , cách biên giới Việt-Miên 7 km về phía Nam. Phi trường có phi đạo đắp đất cách Trại chửng 5 km và dài chừng 900 m đủ để phi cơ Caribou C-7 và C-123 có thể lên-xuống..

Về phương diện hành chánh , Thiện Ngôn nằm trong Quận Phước Ninh, Tỉnh Tây Ninh Trại được xây dựng khá kiên cố, hình ngôi sao 5 cánh do Toán A-323 SF và một toán A LLĐB VN điều hành. Trại có một lực lượng DSCĐ khoảng 350 người chia thành 5 đại đội ( 3 Thượng và 2 Miên) trú đóng, trang bị thêm 2 khẩu cối 81 và 2 khẩu 4 inch 2 (do SF sử dụng). Các trận đụng độ giữa CIDG và CQ tại Thiện Ngôn. Căn cứ Thiện Ngôn gây trở ngại khá nhiều cho việc di chuyển của CQ nên họ thường tấn công và pháo kích vào Căn cứ….
Sau đây là vài trận đánh tiêu biểu (dựa theo quân sử của 5th SF và tập sách Green Beret at War của Shelby Stanton ):

– 1 tháng 9 năm 1968 : CQ pháo kích Trại bằng 20 quả 122 và 60 quả 82 . Trại phản pháo bằng súng nặng cơ hữu và có Spooky không yểm. 6 CIDG tử trận.

– 27 tháng 9 năm 1968 : Hai TĐ của SĐ9 BV đã mở cuộc tấn công vào Căn cứ . Trại bị pháo kích bằng hỏa tiễn và súng cối, mức độ gia tăng cho đến 10 giờ đêm. Sau đó CQ mở 3 đợt tấn kích , từ nửa đêm đến sáng, sau mỗi đợt pháo kích là đặc công tiến đánh dùng bộc lôi phá rào, nhưng đều bị đẩy lui do sự chống cự của lực lượng trú phòng được pháo binh và không quân yểm trợ. Trong trận này 5 DSCĐ tử trận, 4 LLĐB và 8 DSCĐ bị thương. CQ để lại 140 xác và 3 bị bắt.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/86/Thien_Ngon_SF_Camp%2C_March_1968.png

– 9 tháng 11 năm 1968 : Hai đại đội DSCĐ đã mở cuộc hành quân vào một khu vực cách Căn cứ khoảng 10 km về hướng Tây-Bắc, có 4 LLĐB VN và 4 SF cùng tham dự. Toán quân đi đầu bị phục kích, các toán sau rút chạy bỏ lại 10 quân gốc Miên..Các SF cố quay lại và nhờ sự có mặt của Trung tá Harry Hillings, chỉ huy trưởng B-32 (Toán chỉ huy của A-323) và Sĩ quan LLĐB VN đối tác là Thiếu tá Lê văn Hạnh , trên trực thăng chỉ huy bay trên khu vực nên đã giúp thay đổi tình thế : một đơn vị tăng viện đã được đưa ngay vào vùng để giúp giải cứu được 6 quân còn sống và đem 4 xác tử trận về căn cứ. Sau đó trong các tháng 1 và 6 năm 1969, tuy Trại có tổ chức thêm vài cuộc hành quân nhưng hầu như không đạt hiệu quả , phần lớn do tinh thần chiến đấu rất thụ động và khả năng yếu kém của CIDG. Các cuộc hành quân chỉ dự trù kéo dài tối đa 3 ngày và CQ qua nội tuyến biết khá rõ về kế hoạch nên thường tránh đụng độ.
Căn cứ Thiện Ngôn đóng vai trò quan trọng trong cuộc Hành quân Vượt biên của Liên quân Việt-Mỹ sang Miên tháng 4-1970. Thiện Ngôn đã là điểm tập trung quân để tiền theo QL 22 vả tiến đến Kà Tum và từ đây tấn công vào đất Miên. Trong kế hoạch rút quân của Mỹ, Căn cứ Thiện Ngôn được chuyển giao cho VNCH vào ngày 1 tháng 7 năm 1970 (theo tài liệu của BĐQ VN, nhưng tài liệu tổ chức của Mỹ lại ghi 30 tháng 9 , 1970) . Quân số lúc bàn giao được ghi là 333 người và được chuyển thành TĐ 73 BĐQ Biên Phòng.
Trên nguyên tắc TĐ 73 BĐQ BP sẽ là đơn vị trú đóng tại Thiện Ngôn như TĐ 92 tại Tống Lê Chơn, 62 tại Lệ Khánh, 90 tại Dak Seang … nhưng theo nhu cầu chiến trường Thiện Ngôn đã được giao cho Trung đoàn 49 SĐ 25 BB VNCH trấn giữ. Phòng tuyến Tân Biên-Thiện Ngôn-Xa mát đã bị CQ tấn công nghi binh cầm chân SĐ 25 trong trận An Lộc..
Khu vực Thiện Ngôn-Xa mát có vai trò rất quan trọng với CQ nên họ đã biến đổi khu vực thành một căn cứ địa chính trị và kinh tế lâu dài; Trung Ương Cục Miền Nam của CQ đang đặt tại vùng đất Miên đối diện. Qua năm thứ nhì của Hiệp định Paris , khu vực Lò Gò- Thiện Ngôn -Xa mát và Katum đã trở thành một vùng chiến lược nơi CQ tập trung các bộ chỉ huy quân sự và tiếp vận Trong thời gian này CQ vẫn tiếp tục vây hãm Căn cứ Tống Lê Chơn , phản ứng của VNCH chỉ là những cuộc không kích của KQVN, tập trung vào Xa mát :
Báo cáo của DAO ghi lại :
Hoạt động của KQVNCH trong thời gian các tháng 10-12 năm 1973 :
– Cuối tháng 10 : Oanh kích Xa mát; phá hủy 60 cơ sở, kho hàng gây tử thương cho 60 người (các con số do nguồn tình báo cung cấp)
– 8-10 tháng 11 : Oanh kích Lò Gò : phá hủy nhiều cơ sở hậu cần, kho gạo, kho xăng dầu .. gây tử thương cho nhiều cán binh và chuyên viên tiếp vận.. KQVNCH đã dùng 34 phi cơ trong các cuộc không kích.
– 12 tháng 11 : Oanh kích Thiện Ngôn. KQVN dùng 53 phi cơ tấn công các cấu trúc quân sự, ổ phòng không, pháo binh.. kết quả phối kiểm bằng không ảnh.
-23 tháng 11 : KQVN dùng 68 Skyraiders và 44 F-5 tấn công tập trung phá hủy 69 cấu trúc, 5 tụ điểm nhiên liệu, xe cộ, 6 vị trí phòng không, 17 pháo đài nổi..

* TĐ 73 BĐQ Biên Phòng :

Sau khi được chuyển thành BĐQ BP , các quân nhân DSCĐ được tự quyết định, nếu chọn ở lại BĐQ sẽ được gửi đi huấn luyện tại các Trung tâm huấn luyện của BĐQ, các nhân viên đại đội trưởng sẻ có cấp bực chuẩn úy nếu đủ điểm khi mãn khóa huấn luyện. BĐQ Nguyễn Phát (sĩ quan TĐ 73) ghi lại : ” vào thời điểm 1972 BĐQ Quân đoàn 3 gồm 2 Liên đoàn tiếp ứng 3 và 5 cùng 9 TĐ Biên phòng trong đó có 73.. Tây Ninh là nơi có nhiều TĐ BP nhất 65, 73, 84 và 91 nhưng lúc đó 3 TĐ 65, 73 và 84 đã tập trung thành Chiến đoàn Sông Bé tham chiến tại An Lộc. Các TĐ 65 và 84 quân số hao hụt nhiều phải đưa ra Dục Mỹ tái bổ xung và trở thành lưu động đi tăng phái cho các quân khu như 73 . Tây Ninh không còn 87 nữa..’

TĐ 73 sau khi huấn luyện đã về căn cứ Trảng Sụp vì Thiện Ngôn đã bị lấn chiềm, TĐ trở thành lưu động..TĐ lúc này do Th tá Nguyễn Công Triệu chỉ huy (Th tá Triệu sau đó thăng Tr tá và chỉ huy Biệt đoàn 222 Cảnh sát Dã chiến). Năm 1974 , khi LĐ 8 BĐQ được thành lập , gồm 3 TĐ 84, 86 và 87. LĐ Trưởng lúc thành lập là Đ Tá Vũ Phi Hùng và TĐ trưởng 87 là Th tá Nguyễn Hữu Mạnh. Sau đó Đ/tá Hùng về lảm TMT SĐ 106 BĐQ (tân lập), LĐ 8 được giao cho Tr tá Nguyễn Thanh Tòng.. Trong những ngày cuối của cuộc chiến TĐ 87 được giao nhiệm vụ trấn giữ khu vườn thơm Lý văn Mạnh và Kinh Xáng. 9 giờ sáng 30 tháng 4 TĐ vẫn chiến đấu và trước áp lực của CQ đã phải lùi dần về Sài Gòn và cuối cùng tan hàng sau lệnh buông súng của DVM..

Trần Lý (2019)

Tài liệu sử dụng :

– Green Berets at War (Shelby Stanton)
– VietNam : From Cease fire to Capitulation (William LeGro)
– Các bài về An Lộc của nhiều tác giả Việt-Mỹ
– Các tài liệu về BĐQ của Mũ nâu Vũ Đình Hiếu
– Các tài liệu về TĐ 87 BĐQ của các Mũ nâu Đỗ Như Quyên, Thiên Nga..
đặc biệt là các email của BĐQ Nguyễn Hữu Phát (Belgique)

Video Thiện Ngôn ngày xưa và di tích ngày nay

Tuesday, September 30, 2025

Nhảy Dù Tô Phạm Liệu Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 11 Nhẩy dù

Th/Tá Nguyễn Phan Tựu và Bác Sĩ Tô Phạm Liệu tại Denver Colorado

 Cách đây đã lâu, lâu lắm, gần 40 năm về trước, mà tôi vẫn cảm thấy như ngày hôm qua, vào một buổi chiều thứ Bảy giữa mùa hè tôi gặp Tô Phạm Liệu lần đầu tiên ở Colorado, anh đi theo một số bạn bè từ Denver xuống Colorado Springs thăm tôi. Qua Mỹ chưa đầy một năm, khi đó vợ chồng tôi còn rách như xơ mướp. Vợ tôi tận tụy, bươn chải, còn tôi đi làm part time để dành thì giờ cắp sách đi học thêm ở University of Colorado. Chúng tôi thuê một căn nhà nhỏ ở gần hồ Prospect Lake, cách thành phố Denver khoảng 75 dặm. Căn nhà có gian bếp nhỏ nhắn, cũ kỹ, chỉ đủ chỗ cho hai vợ chồng tôi và đôi, ba người khách ngồi ăn cơm thanh đạm là cùng, thế mà bạn bè cuối tuần cứ ùn ùn kéo tới. Cứ tự nhiên như người Hà Nội, như ăn nhà hàng La Pagode (ăn chùa), chẳng cần thắc mắc điều chi.

Không đủ chỗ thù tiếp đám bạn, có khi lên tới hàng chục người từ xa tới, chúng tôi phải trải tấm vải nhựa xuống mặt thảm giữa phòng khách, chén chú, chén anh, chén thù, chén tạc. Bắt chước người xưa: “Dục phá thành sầu dụng tửu binh”. Cái sầu mất nước, cái sầu bỏ lại vợ con, cha mẹ, bỏ lại bạn bè. Cái sầu phiêu lạc nơi đất khách quê người, cái sầu đang đánh đấm tưng bừng mà sao bỗng nhiên có những ông xếp lớn chợt nhiên lỉnh mất, sau những câu hứa hẹn chắc như cua gạch là sẽ ở lại chiến đấu tới cùng . . .

Trong đám bạn bè hôm đó có dăm ba người phi công, hai ba chàng hải quân và mấy ông lính nhảy dù. Đầy đủ Hải, Lục, Không quân. Mặt mũi tên nào cũng còn trẻ măng, chỉ mới xấp xỉ ba bó. Trong số đó có lẽ Tô Phạm Liệu là lớn hơn cả, khi ấy anh khoảng 35 tuổi. So với tụi tôi dù tuổi tác, học hành bằng cấp có phần chênh lệch nhưng anh chẳng hề câu nệ. Không quân và Nhảy Dù như có một cái liên hệ tình cảm đặc biệt, chỉ sau một vài ly sương sương là bắt đầu mày tao, chi tớ, coi như là bạn vàng biết nhau từ thuở còn ở truồng tắm mưa.

Chúng tôi ngồi uống rượu tới gần sáng, nói chuyện đời lính, chuyện trên trời dưới đất, ngậm ngùi nhắc tới bạn bè vắng mặt, khật khù bên ly rượu mắt ngấn đỏ. Cũng có đôi khi cười vỡ nhà với những câu chuyện bù khú. Tô Phạm Liệu uống rượu không biết say, nói chuyện không biết mệt, anh thao thao bất tuyệt:

“Tao là lính Nhẩy Dù. Ông về từ Charlie mùa hè đỏ lửa 72 đó mày biết không? Tụi mày thả bom được đấy, chì lã́m, A-1 và A-37 mỗi lần đánh đề bỏ hết bom và bắn đến viên đạn cuối cùng dù phòng không hỏa tiễn của vẹm bắn lên như mưa. Tao thấy thằng A-1 bị trúng hỏa tiễn mà thương nó, tàu nó cháy bùng giữa không gian rồi cắm xuống bên sườn đồi . . . Hình như cái thằng thiếu úy đẹp trai, trẻ măng sắp lấy con gái tiệm ăn Hương Giang gì ở Pleiku thì phải? . . . Chúng mày đừng cứ gọi ông là bác sĩ, bác sĩ đếch gì! Ông là lính nhẩy dù: “Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi . . .”

Tô Phạm Liệu dáng người khá to lớn, đẹp trai, trắng trẻo, nói chuyện dí dỏm, có duyên. Khi mới gặp, tôi không ngờ anh là lính tác chiến, Y sĩ trưởng Tiểu đoàn 11 Nhẩy dù, vì trong đầu óc tôi vẫn in đậm hình ảnh những người lính trận phải mang nét mặt sạm nắng, gân guốc, phong trần. Đâu có ai dáng dấp phong nhã như Tô Phạm Liệu “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”, bao năm trấn thủ lưu đồn ở Vùng II Chiến Thuật, đầy tâm hồn vãn nghệ, xúng xính thơ phú.

Tuy cùng một tên họ với thi sĩ Tô Đông Pha làm quan dưới đời nhà Tống bên Tầu, lừng danh kim cổ với hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, nhưng ông quan tu-bíp họ Tô tên Liệu, dù mê thơ nhưng không có tài làm thơ, ông chỉ thích kể lại thời oanh liệt, chuyện “Tiền đồn Charlie” và “… “Hậu đồn Charlie”, mà mỗi lần nhắc tới người nghe như cảm được nỗi ngậm ngùi trong từng tiếng nói, đau xót trên từng thớ thịt khi nhắc đến tên bạn bè.

Đốc tờ Tô có biệt tài đọc thơ, đọc phú, dù thơ phú lượm lặt ở những buổi trà dư tửu hậu, hay tự phịa ra, chẳng câu nệ cú pháp, anh vẫn làm cho mọi người thích thú vì luôn hàm chứa tính hài hước, tiếu lâm. Những lần bạn bè họp mặt có anh là không khí trở nên vui nhộn, sống động, dù các bà khó tính, giữ chồng như giữ của, mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu, nhăn nhó kinh niên, cũng ôm bụng cười hả hê, cười chảy cả nước mắt, cười bò ra sàn nhà.

Và dù ông chồng có mạ̃t lỳ mày lợm có ngồi lại đụng ly, đụng chén với bạn bè tới sáng, say ngỏm củ teo, những bà thuộc loại chằng lửa cũng chẳng lườm, chẳng nguýt, chẳng mặt nặng, mày nhẹ, mặt xưng, mày xỉa. Chẳng đanh đá chua cay xỉa xói bạn bè.

Trong cái chặng đường phiêu bạt của cuộc đời di tản buồn thê lương của người lính chiến buộc lòng rũ áo, một nhóm bạn bè cũ, mới, bỗng nhiên cảm thấy gần gũi nhau, thương nhau hơn. Thương cho thân phận lãng nhách đột nhiên bị đẩy vào giữa cái xã hội vàng thau lẫn lộn, bạc tình, bạc nghĩa, ăn cháo, đá bát, qua cầu rút ván, coi đồng đô la to bằng cái bánh tráng. Mấy mợ gặp nhau thì khoe khoang, ganh tỵ: Hột chị nhỏ, hột em to, hột chị tròn, hột em méo, hột em trã́ng, hột chị đen . . . Trước cái sự lố lăng trong đời tha phương đó, Tô Phạm Liệu tức cảnh sinh tình, anh thường châm chọc:

Chồng chị giầu chị đeo vàng, đeo ngọc
Chồng em nghèo em nắm chắc con cu
Một mai bóng xế trăng lu,
Ngọc vàng chị mất mà con cu em vẫn còn.

Anh hay cất giọng cười sảng khoái sau những lần ngâm thơ tiếu lâm như vậy, hoặc những khi nhái thơ ông Nguyên Sa:

Nắng Saigon anh đi mà chợt “rét”
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
“Lụa Hà Đông 5 ngàn đồng một thước
Mà sao em nỡ xé 4, 5 mầu”

Anh vui với đời sống bình dị, không đua đòi, chỉ thích gần bạn bè nhất là những người với anh đã một thời lao vào lửa đạn trong cuộc chiến tàn khốc, cố gìn giữ phần đất miền Nam tự do. Tôi nhớ có dạo anh lên một bệnh viện thuộc một thành phố nhỏ phía bắc Dakota để tu nghiệp ngành chuyên môn, nhưng chỉ 3 tháng sau anh bỏ dở, quay về lại Denver. Trước khi anh đi tôi cũng đoán trước được điều đó. Tô Phạm Liệu không thể sống thiếu bạn bè.

Anh cảm thấy thoải mái khi ngồi quay quần, không kiểu cọ, khách sáo giữa đám bạn thân tình cười nói tự nhiên. Nhưng cũng có đôi khi tôi chợt thấy anh ngồi thừ người trước ly rượu, mắt nhìn vào bóng tối mông lung bên ngoài khung cửa sổ. Như nỗi đau buồn nào từ những ngày tháng xa xưa bỗng dưng trở lại mà những ly rượu cay, những tiếng cười rộn rã không đủ che giấu những vết thương nhức nhối trong lòng. Hình ảnh đồn Chalie và người anh cả Trung tá Nguyễn Đình Bảo mà chính tay anh đã băng bó trước khi hy sinh, những đêm băng rừng lội suối, dìu đồng đội bị đầy thương tích, mà anh nhiều lần nhắc tới, như hiện về trong ký ức. Anh thường cất giọng ngâm bài “Nhớ rừng” của Thế Lữ:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

…………..

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.

………

Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Hoặc đôi khi đập tay xuống bàn, mắt trợn trừng nhìn vào bóng tối, ngâm bài “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm:

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

……………….

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Mây thu đầu núi, gió lên trãng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Ly khách ven trời nghe muốn khóc,
Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm.

Khoảng giữa năm 1981, Tô Phạm Liệu hành nghề ở một bệnh viện sát biên giới hai tiểu bang Kansas-Colorado. Dù ở cách xa Denver trên 200 miles, nhưng gần như mỗi tuần anh đều lái xe về Denver, chúng tôi một nhóm bạn bè lại hú nhau tụ tập, chén chú, chén anh, chuyện trò thâu đêm suốt sáng.

Vào cuối thập niên 1980 anh đổi đi làm việc ở một bệnh viện cựu chiến binh ở thành phố Alexandria, Louisiana, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, chỉ thỉnh thoảng gọi điện thoại hoặc nhắn tin thăm hỏi. Lần chót tôi gặp lại anh vào mùa hè năm 1993, anh trở lại Denver thăm bạn bè và đó có lẽ cũng là lần cuối chúng tôi ngồi chung bàn tiệc với nhau. Sức khỏe Liệu suy sụp một cách nhanh chóng, trông anh gầy hẳn đi vì bệnh gan tàn phá cơ thể. Mùa hè năm sau, tôi lo lắng gọi điện thoại hỏi thãm, giọng anh yếu ớt, mệt mỏi.

Tuy vậy, tôi vẫn còn nghe tiếng cười ngạo nghễ từ đầu dây bên kia: “Tao là lính Dù. Tao không dễ chết đâu mày. Ông đếch sợ, ông còn chống cự dài dài, còn lâu ông mới ngỏm”. Tôi hứa sẽ có dịp ghé thăm anh. Anh dặn dò: “Mày xuống đây tao gọi thằng em LXN, thằng KQ viết văn của tụi mày ở dưới New Orleans, nó làm đồ nhậu hết xẩy, thỉnh thoảng vẫn bê lên tao một bao crawfish ngồi lai rai cả buổi. Anh còn thách thức: “. . . Mày đừng lo, ông bệnh nhưng ông vẫn uống như rồng . . . Sư mày. Xuống đây. Còn lâu ông mới uống thua mày.”

oOo

Tô Phạm Liệu vĩnh biệt bạn bè ra đi vào giữa đêm 29 tháng 7, 1997. Tôi không ngờ anh đi mau như vậy. Tôi ân hận mãi vì thời gian đó phải đi công tác xa nhà liên miên nên không xếp đặt thì giờ để thăm anh được.

Thời giai trôi qua như bóng câu, nào ngờ thấm thoát đã ngần ấy năm cách biệt. Có những buổi chiều cuối tuần vắng lặng, tôi ngồi một mình, chợt nhớ tới anh, sao cảm thấy trống vắng lạ lùng. Tôi nhớ những chiều thứ Bảy, dáng Tô Phạm Liệu lừng lững trong bộ đồ hoa dù, chiếu mũ đỏ đội lệch trên trán, bước ngang khu sân cỏ trước nhà tôi với một đám bạn bè, hớn hở cười nói. Tôi nhớ những đêm ngoài trời tuyết giá, tôi say mèm, người mềm như sợi bún, tửu lượng tôi chẳng thể so bằng Liệu nên thường hay thua cuộc. Tôi nằm trên ghế salon nửa tỉnh, nửa mê, anh đến gần ân cần đắp nhẹ chiếc mền lên ngực tôi: “Ngủ đi mày, sáng mai nhậu tiếp. Mẹ…cái thằng dở ẹt, chưa nhậu đã xỉn”.

Người Y sĩ yêu thương đồng đội, người lính Mũ Đỏ can trường Tô Phạm Liệu: “Ra đi không mang va-ly, quần áo cứ thế đút túi… ” dọc ngang một đời chiến đấu lẫm liệt không sợ hòn tên, mũi đạn, nhưng số mệnh khã́c nghiệt đã quật anh nã̀m xuống sau cơn bệnh ngạ̃t nghèo.

Anh sớm chia tay bạn bè vĩnh viễn, ra đi chẳng cần hành trang. Ngoài hình bóng người vợ trẻ, đứa con thơ, chắc chắn anh còn mang theo tình bạn bè, tình chiến hữu, tình những người lính Mũ Đỏ một thời cùng nhau ngang dọc, đạp gót bốt đờ sô lên không gian, coi cái chết tựa lông hồng. Tôi cũng tin rằng nếu khi ra đi mà được chọn lựa, anh sẽ chọn chiếc áo hoa dù và cái Mũ Đỏ đút túi mang theo, mãi mãi như hành trang quí báu về bên kia thế giới.

Và dù có yên nghỉ nơi nào, nếu còn được nghe tiếng phi cơ khu trục bay ngang trời chắc hã̉n anh cũng đưa tay vẫy chào . . . Vẫy tay chào nhau, những người đã một thời chiến đấu hiên ngang, chiến đấu hết lòng cho phần đất tự do nhưng phải buông tay trước số mệnh nghiệt ngã của quê hương.

Viết Nhân Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng 6.

Hôm nay là ngày giỗ B/S TÔ PHẠM LIỆU
Y Sỹ Tiểu đoàn 11 Nhẩy Dù người đã gói xác tiểu đoàn trưởng NGUYỄN ĐÌNH BẢO trên đồi Charlie.
Luôn nhớ về anh một người anh, một bạn nhậu mà ai cũng quí mến.
(hình ảnh này do Hào chụp cách đây gần 30 năm) .



Bài Ca Tình Nhớ  
Ra đi không mang vali / Tô Phạm Liệu  


Từ trái sang phải: Tô Phạm Liệu, Phạm Chí Thăng, Phạm Chí Bảo, Lê Trung Hiếu

Tô Phạm Liệu: Người Trở Lại Charlie.

Lật qua tờ Nhật báo Người Việt ngày 5 tháng Mười 1997, một tin cáo phó làm tôi giật mình chú ý đọc ngay:"...Tô Phạm Liệu (1941-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù...đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 tháng Chín1997..."

Vậy là anh Liệu đã từ giã cõi đời này!

Hình ảnh của Tô Phạm Liệu trở về từ dĩ vãng xa xưa.

Lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu đã lâu lắm rồi, đã hơn 27 gần 28 năm trước đây.

Ngày đó, vừa học xong lớp Y Khoa Năm Thứ Nhất ở trường Ðại học Y Khoa Sài Gòn, tôi đã có một số khá đông bạn bè cùng lớp rủ nhau nộp đơn, đi thi và đỗ vào trường Quân y.

Một ngày tháng Giêng 1970, ngày nhập ngũ, chúng tôi rủ nhau nao nức đi trình diện ở trường Quân Y. Một đám sinh viên Y Dược Nha đến và được tập trung ở cổng trường chỗ gần trạm kiểm soát ra vào. Chúng tôi là những tân sinh viên quân y. Người đầu tiên ra gặp chúng tôi là một sinh viên sĩ quan quân y. Anh mặc quân phục xanh bộ binh, đeo lon trung uý có hai bông mai vàng trên một nền nhung đỏ thẫm ở trên vai với dấu hiện con rắn vàng, của ngành quân y, và dấu hiệu một cánh dù màu xám, bằng nhảy dù, trên ngực áo. Thoáng gặp anh, chúng tôi cũng phải để ý ngay, vì anh là một người to lớn, vừa to vừa cao trông như là một "ông hộ pháp."

Không cười đón niềm nở chút nào cả, với giọng nói to, vang vang trong buổi chiều nắng gió, anh tự giới thiệu. Tôi nhớ đại khái rất ngắn và gọn. Anh cho biết tên là Tô Phạm Liệu, sinh viên sĩ quan quân y năm thứ sáu và anh được cấp trên đề cử làm Sinh Viên Sĩ Quan Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Tân Sinh Viên.

Anh Liệu dẫn khoảng bốn năm chục người chúng tôi vào một sân rộng lớn của trường Quân Y, nơi có một cột cờ với lá cờ vàng ba sọc đỏ khá cao. Ðó là Vũ Ðình Trường của Trường Quân Y và ở đó đã có thêm sẵn hai sinh viên sĩ quan quân y khác đứng chờ sẵn từ lâu.Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ba ông đàn anh dẫn chúng tôi chạy vòng quanh sân cờ cho đến khi tất cả hết sức lực và có một người phải ngất xỉu.

Ðó là kinh nghiệm đầu tiên của đa số chúng tôi đối với quân đội. Ðó là lần đầu tiên hành xác để mở đầu cho Tám Tuần Lễ Huấn Nhục của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Sĩ Quan Quân Y. Ðối với những "thư sinh trói gà không chặt" mà còn "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm," chỉ biết việc sách đèn, đây quả là một thử thách khá lớn lao.

Và đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu. Trong tám tuần lễ của "mồ hôi, nước mắt" chúng tôi đã được các đàn anh của các khóa trước "chỉ dạy"một cách rất tận tình bằng mọi cách. Chúng tôi được học qua căn bản quân sự, căn bản thao diễn. Và mọi người được thay nhau tập hít đất, tập thở, tập chạy, tập cười... theo lệnh các huynh trưởng!

Các đàn anh chia ra từng toán ba người. Anh Tô Phạm Liệu đích thân làm trưởng một toán. Mỗi toán có nhiệm vụ hướng dẫn các tân sinh viên một ngày. Riêng anh Liệu hình như ngày nào cũng có mặt để quan sát các hoạt động, tiến triển trong việc huấn luyện các tân sinh viên Quân Y. Anh Tô Phạm Liệu rất tận tâm bỏ khá nhiều thì giờ vào việc dẫn dắt đàn em mới nhập ngũ. Những người nào mà có vẻ lười biếng công việc tập tành là khó qua khỏi mắt của đàn anh. Ai đau thật hay chỉ ốm giả anh cũng biết. Hình như anh biết rõ về bản chất, tính tình của từng người một. Anh là người gần gũi với chúng tôi nhất trong những ngày đầu tiên khi mới gia nhập quân ngũ.

Sinh hoạt với anh một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy ngay ngoài "cái vỏ" lạnh lùng nghiêm nghị của anh còn có một bề trong khác hẳn với một tâm hồn đầy tình cảm và hiểu biết. Anh Liệu thường thấu hiểu gần như mọi chuyện xẩy ra trong đại đội tân sinh viên quân y và thường giải thích hay giải quyết, thường là bằng tình cảm, những vấn đề khó khăn hay khó nói nhất. Nhiệm vụ chỉ huy hướng dẫn đôi khi làm anh có vẻ khó khăn và khô khan nhưng những lúc nói chuyện với anh Liệu trong kh irảnh rang đã làm chúng tôi thấy anh là một người rất nhiều tình cảm, rộng lượng và rất thương mến những anh em trong gia đình Y Dược Nha trong ngành Quân y. Một điều đặc biệt nhất là Tô Phạm Liệu nói chuyện rất hay, rất lôi cuốn người nghe, nhất là khi anh Ðứng trước hàng quân. Tôi được biết anh đã còn là một huynh trưởng trong ngành Hướng Ðạo Việt Nam. Sự việc anh giỏi về diễn thuyết hay chỉ huy là đã có kinh nghiệm từ lâu.

Nhiệm vụ khó khăn của anh là cho chúng tôi được có những khái niệm ban đầu về Quân Ðội rồi cũng thành công. Tất cả đám tân sinh viên Y Nha Dược đều qua khỏ itám tuần lễ huấn nhục gian lao. Chúng tôi được tổ chức lễ gắn alpha và trở thành những sinh viên Quân y hiện dịch thực thụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ðêm hôm gắn alpha, anh có nói chuyện riêng khá cảm động với một vài người chúng tôi. Anh cho biết rất hài lòng với kết quả và nhắn nhủ công chuyện tương lai. Tô Phạm Liệu có nói ngày nào đó chúng tôi sẽ hiểu rõ đàn anh hơn khi đứng ra hướng dẫn những đàn em sau này. Riêng tôi về sau này rất thông cảm anh vì chính bản thân tôi lại "được" cử ra làm nhiệm vụ của anh, dẫn dắt các tân sinh viên quân y, khi khóa sinh viên sĩ quan của chúng tôi trở thành khóa đàn anh lớn nhất trongtrường Quân Y.

Năm chúng tôi vào Quân Y cũng là năm khóa 16 Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y ra trường. Anh Tô Phạm Liệu chọn binh chủng Nhảy Dù và nhiệm sở đầu tiên là một tiểu đoàn Nhảy Dù. Tô Phạm Liệu đã chính thức trở thành y sĩ của một tiểu đoàn tác chiến của binh chủng nhảy dù.

Những ngày sau đó tôi rất ít gặp anh Liệu. Chúng tôiở lại hậu phương hoàn tất công chuyện học hành ở những trường Y Nha Dược. Anh Liệu và các anh khác tản mác trong những đơn vị của quân đội khắp bốn vùng chiến thuật. Và tôi chỉ gặp lại anh Liệu một hai lần gì đó trong một khoảng thời gian gần hai năm trời khi anh về ghé thăm trường quân y trong những dịp nghỉ phép giữa những ngày ở mặt trận. Những ngày đó anh vẫn cao lớn và mặc quần áo rằn ri nhẩy dù trông rất oai hùng. Chúng tôi cũng chỉ có dịp nói chuyện chào hỏi chút ít và tôi chỉ biết là anh đã trải qua khá nhiều thử thách ngoài mặt trận nhưng không có nhiều chi tiết.

Và đến một ngày tháng, ở một nơi... của định mệnh.

Thời điểm là năm 1972, vào mùa Hè nắng cháy.

Ðịa điểm là Charlie, Cao Nguyên Nam Việt Nam.

Tôi được nghe đến, được biết đến, được hiểu... Tô Phạm Liệu nhiều hơn.

Bốn năm trước đó, năm 1968, năm bầu cử Tổng thống Mỹ là khi Bắc Việt cho tổng tấn công và thất bại trên các chiến địa Tết Mậu Thân nhưng phải nói họ đã có ảnh hưởng trong việc tuyên truyền chính trị. Hình ảnh chiến tranh Việt Nam tràn ngập trên đất Mỹ theo vào từng nhà riêng của dân Mỹ bằng máy vô tuyến truyền hình. Dân chúng Hoa Kỳ đã bắt đầu chán sợ cuộc sống chiến tranh đẫm máu và dai dẳng cách xa một nửa trái đất. Ðầu óc thực tế của họ đã đếm nhiều đến số tiền trang trải cho cuộc chiến. Hình ảnh quan tài những người Mỹ chết ở Việt Nam đem về Mỹ được chiếu rõ trên truyền hình làm nao núng cả quốc gia. Cá cphong trào phản chiến Mỹ hoạt động mạnh hơn. Ứng cử viên Tổng thống Mỹ đều biết rõ tầm quan trọng của việc cần phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Năm 1972, một lần nữa là năm bầu cử Tổng thống Mỹ.Do đó, một lần nữa, cũng là lúc Bắc Việt cần có tiếng vang vọng với bất cứ giá nào. Ðại tướng Bắc Việt Võ Nguyễn Giáp còn nghĩ là có thể chiếm đoạt miền Nam vào lúc này.

Cũng như Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân năm 1968, Tướng Giáp đã lại "thí quân" và lần này quyết định tấn công với ba mặt trận lớn được bùng nổ vào mùa Hè 1972.

Thứ nhất: Mặt Trận Giới Tuyến tại vùng Phi Quân Sự. Việt Cộng đã bất chấp tất cả mọi ký kết của chính họ ở Hiệp định Genève 1954. Họ đã cho hai Sư đoàn 304 và 308 tăng phái bởi bốn Trung Ðoàn Ðặc Công với hơn 200 chiến xa của Trung đoàn 203 và 204 và thêm ba Trung đoàn Pháo Binh vượt khu Phi Quân Sự đánh chiếm Quảng Trị.

Thứ hai: Mặt Trận Biên Giới chiếm đánh Lộc Ninh, An Lộc do các Sư đoàn Cộng Sản 5, 7 và 9 cùng với hơn 200 xe thiết giáp. Trong khi Sư đoàn 1 Bắc Việt quấy rối vùng Ðồng bằng Cửu Long để cầm bớt quân đội Việt Nam lại vùng IV chiến thuật.

Thứ ba: Mặt trận Cao Nguyên thì có hai Sư đoàn 2 và 320v ới cùng một trung đoàn chiến xa đánh chiếm vùng Kontum, Pleiku. Trong khi Sư đoàn 3 Cộng Sản đánh vùng Bình Ðịnh.Tại Cao Nguyên, tướng Võ Nguyên Giáp mưu định cắt Miền Nam thành hai mảnh.

Thời điểm là Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972.

Ðịa điểm là Charlie của Chiến Trường Cao Nguyên.

Trong quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam "Mùa Hè Ðỏ Lửa," Phan Nhật Nam đã viết trong đoạn đầu tiên "Charlie, tên nghe lạ quá":

"Quả tình nếu không có trận chiến mùa hè 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie hay Cải Cách hay"C" đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Poko và đường 14, Ðông Bắc là Tân Cảnh, với 12 cây số đường chim bay, Ðông Nam là Kontum thị trấn cực Bắc của Tây Nguyên... Charlie lọt giữa bị bao vây bởi căn cứ 5, căn cứ 6, ở phía Bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngỏ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa hè,mùa "mưa rào," báo chí hằng ngày trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống miền núi non xương sườn cực Tây của quê hương Việt Nam..."

Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa của năm1971 qua đầu xuân của 1972, Bắc Quân vẫn không vượt qua hai cửa ngỏ. Căn cứ 5, Căn cứ 6... Cộng quân đổi hướng tiến lòn sâu xuống phía nam của hai căn cứ trên để tiếp tục sự nghiệp "giải phóng" với mục tiêu cốđịnh: Tân Cảnh, cắt đường 14..."

Lữ đoàn 2 Nhảy Dù được cử đến lập một vòng đai để giữ những yếu điểm trong vùng quanh Quốc Lộ 14 và Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù có nhiệm vụ đóng giữ Charlie. Tô Phạm Liệu, người y sĩ trưởng của Tiểu đoàn, một người sĩ quan Nhảy Dù, đã được thả đến Charlie cùng với Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, Tiểu đoàn Nhảy Dù mới nhất của Sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, vào ngày 2 tháng Tư.

Sau đó, tại Charlie, một trận đánh oai hùng và bi thương của người lính Nhảy Dù đã xẩy ra.

Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù là Trung tá Nguyễn Ðình Bảo tốt nghiệp khóa 14 Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Trung tá Bảo có tính tình giản dị và là người chỉ huy rất giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ông gia nhập Nhảy Dù ngay sau khi ra trường võ bị, dự nhiều trận chiến khốc liệt chiến thắng nhiều và đã bị thương hai lần ở mặt trận.

Tuy vậy, lần này Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bị bao vây bởi cả một Sư đoàn Bắc Việt, Sư đoàn 320 có mang danh là Sư đoàn Ðiện Biên và cũng được gọi là Sư đoàn Thép tăng phái thêm Trung đoàn 64 của Sư đoàn Sao Vàng CộngSản. Không phải đoán cũng thấy ngay là một chiến thuật thí quân lấy thịt đè người. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo bây giờ có lẽ giống như một con hổ trong lồng.

Ngày 11 tháng Tư là lúc Cộng Sản sửa soạn tấn công. Hàng trăm quả pháo rót vào Charlie kể cả đại pháo 130mm với đạn xuyên phá "delay." Ðây là loại đạn đặc biệt nguy hiểm, không nổ ngay khi chạm đất mà sẽ nổ sau khi đã xuống dưới mặt đất khoảng hơn một thước để tàn phá những hầm trú ẩn.

Ngày 12 tháng Tư, Cộng Quân tiến đánh. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù kể cả Bác sĩ Quân y Tô Phạm Liệu đã quần thảo với lính Cộng của Sư đoàn Ðiện Biên tranh thủ từng thước đất.

Trung tá Nguyễn Ðình Bảo, nhiều sĩ quan và binh sĩ nhảy dù đã hy sinh tại mặt trận.

Ngày 15 tháng Tư 1972 Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã. Chính bản thân Tô Phạm Liệu cũng bị thương ở chân. Tô Phạm Liệu và Thiếu tá Tiểu đoàn phó đã dẫn một nhóm nhỏ còn lại và các thương binh rút khỏi Charlie. Và nhóm này cuối cùng được trực thăng "bốc" đi thoát. Một số khác chạy bộ băng rừng về.

Xác chết của nhiều quân nhân và của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo đã không đem được về và đã để lại ở Charlie.

Nhiều chiến sĩ nhảy dù đã anh dũng "ở lại" Charlie.

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sau này đã cảm hứng vì sự hy sinh của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo và những chiến sĩ nhảydù khác tại mặt trận Charlie mà đã sáng tác "Người - Lại Charlie," một bản nhạc khá hay và cảm động:

"Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.

Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí.

Vâng chính anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng.

Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.

Anh! Vâng, chính anh là loài chim quí.

Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý, một lần dậy cánh bay, người để cho người nước mắt trên tay..."

Sự kiện Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Charlie khi bị hơn một Sư đoàn bộ đội Bắc Việt tấn công với đại pháo và chiến xa là chuyện dĩ nhiên phải xảy ra. Nhưng điều quan trọng hơn là sự hy sinh dũng cảm của nhữn gngười lính Việt Nam Cộng Hòa đã gây tổn thất nặng cho đối phương và ảnh hưởng đến tinh thần của Cán Binh Bắc Việt.

Tuy là ngay sau đó, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù phải bỏ cả TânCảnh về Kontum. Tuy là các Sư đoàn Bắc Việt kiểm soát được Quốc lộ 14. Tuy là họ đã bao vây thành phố Cao Nguyên Kontum. Tuy là họ dốc toàn lực đánh Kontum hai lần ngày 14 và 25 tháng Năm. Nhưng họ vẫn thất bại. Cuối cùng Cộng Sản Việt Nam vẫn không đạt được mục tiêuvào năm 1972 và phải rút lui tại mặt trận miền Cao Nguyên.

Mặt trận Biên Giới nổ lớn tại An Lộc - Bình Long. Bộ đội Cộng Sản hàng hàng lớp lớp biển người được yểm trợ bởi hàng trăm chiến xa tối tân và đại bác hỏa tiễn hùng hậu đã tràn ngập mặt trận. Nhưng họ đã phải đứng khựng lại ở quận An Lộc, cứ điểm quan trọng ngăn cản đường tiến của Bắc Quân đến Quốc lộ 13 để về "giải phóng" Sài Gòn. Trong khoảng 100 ngàygần 60 ngàn quả đại bác đã bắn vào độ một cây số vuông của quận lỵ nhỏ bé An Lộc. Năm lần Việt Cộng đã mở những cuộc tấn công. Cả năm lần Bắc Quân phải chùn bước. Người hùng Chuẩn tướng Lê Văn Hưng và các lực lượng phòng thủ với sự phụ lực của Ðại tá LêQuang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ với sự phụ lực của Ðại tá Lê Quang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ hữu hiệu Của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã choBắc Việt một bài học cay đắng, họ cho tướng Võ Nguyên Giáp biết thế nào là "tử thủ." Ngày 8 tháng Sáu 1972 Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù tiến vào thành phố, đã "bắt tay" được với Tiểu đoàn Nhảy Dù "bạn," Tiểu đoàn 6 NhảyDù là đơn vị đã được trực thăng vận đến An Lộc mấy ngày trước.

An Lộc hoang tàn. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững.

An Lộc đẫm máu. An Lộc đầy lửa khói. Nhưng An Lộc vẫn còn.

Cuối cùng Bắc Quân phải rút lui.

Mặt trận Vùng Hỏa Tuyến. Ngay những ngày đầu tiên Việt Cộng đã tràn ngập Quảng Trị và Sư đoàn 3 Bộ BinhViệt Nam sau đó phải tan rã chạy về phía Nam. Dân chúngQuảng Trị ghét sợ cộng sản chạy theo quân. Hỗn loạn! Kinh hoàng! Máu đổ nhiều! Quân dân chạy giặc dưới làn đạn làm hàng ngàn người chết ở Ðại Lộ Kinh Hoàng. Bắc Quân tràn lan đánh chiếm khắp nơi.

Nhưng họ đã bị chận đứng ở sông Mỹ Chánh. Nơi đây ngày 2 tháng Năm, Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã bắn hạ 17 chiến xa Bắc Việt. Cùng một lúc Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được cử ra giữ chức Tư LệnhQuân Ðoàn I. Thế cờ được lật ngược.

Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Tân Cảnh nhưng không biến mất mà đã phối trí lại. Và chỉ độ một tháng sau ngày tan rã ở Charlie, Tô Phạm Liệu và Tiểu đoàn 11 NhảyDù đã có mặt ở miền Hỏa Tuyến. Tháng Sáu 1972, Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư đoàn 1 Bộ Binh cùng với sự yểm trợ của Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã mở chiến dịch tổng phản công.

Cuộc chiến đẫm máu kéo dài đến tháng Chín 1972 khi lá cờ vàng ba sọc đỏ được những người lính Thủy QuânLục Chiến dựng lại tại Cổ thành Quảng Trị và khi tàn quân Bắc Việt chạy ngược trở về bên phía Bắc dòng sông Thạch Hãn.

Giấc mơ chiếm đoạt miền Nam vào mùa Hè 1972 của tướng Võ Nguyên Giáp đúng là "chỉ là một giấc mơ thôi."

Có lẽ nhiều ngàn hay có thể đến hàng chục ngàn người đã "sinh Bắc" và được "tử Nam" trong mùa Hè này.

Y sĩ Ðại uý Tô Phạm Liệu đã được Sư đoàn Nhảy Dù trao tặng danh hiệu "Quân Nhân Xuất Sắc Nhất Của Sư Ðoàn Nhẩy Dù."

Tô Phạm Liệu, tên tuổi hào hùng của ngành Quân Y "con rắn" chúng tôi, cũng lừng danh trong những đơn vị Nhảy Dù "mũ đỏ" của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó.

Chiến dịch mùa Hè 1972 đã làm Bắc Việt tổn thấ tnặng. Phải một thời gian khá lâu họ mới hồi phục lại được sức mạnh. Những ngày tháng ngay sau đó họ đã không tạo thêm được tiếng vang gì đáng kể. Ngoại trừ một cố gắng khác, nhưng vẫn thất bại, ở Sa Huỳnh ở vùng Quảng Ngãi - Bình Ðịnh đầu năm 1973.

Nhưng năm 1973 cũng là năm của Hiệp định Paris ký kết bởi Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ. Năm của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam. Hiệp định Paris đã đẩy Việt Nam Cộng Hòa vào con đường cùng. Hoa Kỳ dần dần rút khỏ iViệt Nam. Viện trợ quân sự Mỹ cho Quân đội Việt Nam cũng giảm dần theo. Ðạn dược, súng ống của Quân đội Việt Nam trở thành thiếu thốn. Xe tăng lỗi thời. Máybay cũng ít dần và cũ kỹ dần. Bắc Quân ngày càng nhiều khí giới tối tân. Nga Sô và Trung Cộng cùng các nước Cộng Sản trên thế giới vẫn tiếp tục ủng hộ tiếp tế Hà Nội một cách tích cực. Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu hầu như một mình với Cộng Sản Bắc Việt và cả một thế giới Cộng Sản đứng đằng sau. Ðó là kết quả của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam, chính sách của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon.

Hiệp định Hòa Bình Paris 1973 và giải Nobel được trao tặng cho Lê Ðức Thọ và Henry Kissinger chỉ là những trò hề. Bắc Quân tiếp tục xâm phạm những gì họ ký kết.Ðường mòn Hồ Chí Minh "đông người như đi chợ"chuyển quân và vũ khí thiết giáp vào miền Nam.

Tô Phạm Liệu tốt nghiệp Khóa 16 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch gia nhập Nhảy Dù năm 1970.

Khóa 21 Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y, khóa cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, khóa của chúng tôi ra đơn vị năm 1975.

Năm năm sau tình hình đã đổi khác hoàn toàn. Những tân Trung uý Y Nha Dược ra đơn vị đúng lúc ngày tàn củacuộc chiến. Tỉnh Phước Long đã rơi vào tay Cộng Sản tháng Hai 1975.

Chuyện gì đã xẩy ra đã xẩy ra. Chuyện mất miền Nam vào tay Cộng Sản ngày 30 tháng Tư 1975 đã đến. Có điều chuyện xẩy ra hơi sớm, một cách rất ngạc nhiên, ngoài sự dự liệu của tất cả mọi người trong và ngoài cuộc. Lịch sử sẽ cho dần những câu trả lời. Nhưng làm sao có ai, có những lý do nào... mà có cho đủ được những câ utrả lời cho chuyện bỏ chạy một cách nhanh chóng như vậy?

Ða số chúng tôi Khóa 21 Quân Y chỉ đến đơn vị được một, hai tháng thì cuộc đời nhà binh cũng chấm dứt.

Ðể sửa soạn dư luận cho cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹnăm 1976, Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng đã bắt đầu Chiến Dịch Mùa Xuân năm 1975. Nhưng chính những người cầm đầu Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thể biết có kết quả nhanh và bất ngờ ngoài dự liệu như vậy.

Miền Nam Việt Nam sụp đổ dần như một căn nhà không có nền móng trong khoảng 55 ngày.

Ngày 10 tháng Ba 1975 Bắc Quân bắt đầu tiến đánh Ban Mê Thuột.

Ban Mê Thuột mất ngày 17 tháng Ba 1975.

Theo đó là Quảng Trị mất 20 tháng Ba.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ Huế 23 tháng Ba.

Rồi Ðà Nẵng di tản ngày 29 tháng Ba...

Bắc Việt tiến chiếm dễ dàng dần dần từ Bắc xuống Nam. Bắc Quân vào nhiều thành phố bỏ trống như chỗ không người. Tình hình thật là hỗn loạn. Những câu chuyện cười ra nước mắt được kể lại. Như là một thành phố ở miền Trung được di tản đến cả ba, bốn ngày sau một đơn vị quân đội nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa quay lại cũng vẫn còn y nguyên vì Cộng Sản cũng không đến kịp vào để tiếp thu! Hoặc là có những thành phố được phát ngôn viên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã di tản nhưng sự thật dân quân vẫn còn nguyên tại chỗ! Hầu như tất cả mọi người đều không làm được gì cả.

Chúng tôi bất lực. Chúng tôi không làm được gì ngoài việc chỉ cố tránh né để mái nhà hay bức tường vỡ khỏi rơi vào người.

Ngày 20 tháng Tư 1975 tiền đồn cuối cùng ở Xuân Lộc bị phá vỡ. Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo và Sư đoàn 18 phải rút quân. Sài Gòn hầu như rối loạn hoàn toàn. Nhìn trước ngó sau chỉ thấy nhiều người tìm cách đi khỏi nước Việt Nam hơn là tìm cách chống trả giữ Sài Gòn.

Sài Gòn coi như đã mất. Thành phố như là một thành phố đang chết! Chỉ còn vấn đề thời gian. Một thời gian ngắn thôi.

Những ngày cuối của tôi ở thành phố Sài Gòn là như vậy. Ngày ngày nghe được những tin tức những nguời nào đã đi, những người nào sắp đi.

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Trung tướng Nguyễn VănThiệu từ chức. Trong diễn văn gửi đến các nước ôngThiệu đã không hết lời trách móc "đồng minh" Hoa Kỳ.Trung tướng Thiệu tuyên bố "...sẽ trở lại Quân Ðội khoác áo nhà binh cùng các anh em chiến đấu..." Vài ngày sau thì được tin "người" đang ở Ðài Loan!

Thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố đại khái là: "...nhất định ở lại Việt Nam ăn cà, tương, mắm...vì qua Mỹ ăn phó mát và uống sữa tươi sẽ đau bụng!"Vài ngày sau "người" cũng bay mất!

Tân Tổng tư lệnh Quân Ðội Trung tướng Vĩnh Lộc cho phát thanh một nhật lệnh đến toàn thể Quân Ðội ViệtNam Cộng Hòa hùng dũng kêu gọi "...mọi người hãy bỏ ý định chạy trốn như những đàn chuột nhắt..." Nhưng khi bài nói chuyện được phát thanh trên đài thì "người"đã ngồi ở trên một chiến hạm ngoài khơi trên đường ra ngoại quốc!

Mỗi ông "tuyên bố một câu xanh rờn."

Toàn là những lời câu nói "để đời"!

Ðông phương đã dạy làm tướng thì phải biết cách tự xử khi mất thành. Tây phương cũng có viết làm thuyền trưởng khi tầu chim thì phải ở lại chìm theo tầu. Tô ikhông hy vọng những "người trên đây làm được như những Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng PhạmVăn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng TrầnVăn Hai, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ... là nhữngvị tướng đáng kính phục tự xử khi mất nước. Nhưng phải chi những "người đó cứ im lặng mà "đi" thì cũngchả có mấy ai cay đắng mỗi khi nghĩ đến chuyện những người ở lại hy sinh mạng sống hay nằm trong những trại cải tạo của Cộng Sản Việt Nam hằng bao năm trời.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, Tân Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.

Tôi may mắn thoát được lên chiến hạm Hải Quân Việt Nam HQ 1. Chỉ độ mười phút sau đó tầu rời bến BạchÐằng cùng cả những chiến hạm còn lại ở bến của Hạm đội Hải Quân Việt Nam sau khi binh sĩ Hải Quân chặt cầu vì không đủ chỗ cho hàng người đang đứng đợi lên tầu.

Thế là hết! Vĩnh biệt Sài Gòn! Vĩnh biệt Việt Nam!

Tầu Việt Nam đến Subic Bay ở Phi Luật Tân thì chúng tôi được chuyển ngay sang một tầu Hoa Kỳ rộng lớn hơn để đi đến đảo Guam.

Bước lên chiếc tầu Hoa Kỳ đầy người. Ðủ loại người. Dân sự có, quân sự có. Người nằm, kẻ đứng ngồi. Hỗn loạn. Tôi tìm đến một góc nhỏ để trán hné phiền phức. - đây tôi thấy một người khá to lớn nằm trên một chiếc võng mắc vào những cái cột của tầu. Lại gần nhận ra đó là Huynh trưởng Tô PhạmLiệu. Tôi không ngờ gặp nhau trong hoàn cảnh này.

Tôi buồn nhớ lại những ngày xưa người anh từ chiến trường về thăm trường Quân Y với binh phục nhảy dù oai hùng. Bây giờ Tô Phạm Liệu vẫn mặc binh phục nhảy dù Việt Nam, nhưng bẩn và nhầu nát. Anh Liệu không giống anh Liệu những ngày trước khi anh trở về từ những chiến thắng nữa. Tô Phạm Liệu nằm trên võng, anh vẫn tỉnh giấc nhưng mắt nhắm như để quên đi những hình ảnh nào đó. Anh Liệu hình như muốn ngủ triền miên. Nhưng làm sao mà ngủ được? Rồi sau đó Tô Phạm Liệucũng mở mắt ra. Anh kể lại những lúc cuối cùng.

Tô Phạm Liệu nói rất ít. Tôi cũng chả nói nhiều. Ðau khổ đã làm tê liệt con người.

Nhưng thật ra còn có gì khác để đáng nói đến nữa đâu?

Anh em nhìn nhau thẫn thờ! Bàng hoàng! Sững sờ! Giọt lệ nào đó hình như vòng quanh khóe mắt làm mờ mắt của cả hai chúng tôi!

Ngày hôm sau tôi trở lại chỗ cũ không thấy anh đâu cả.Chiếc võng cũng biến mất. Tôi để ý tìm mà không gặp.Tô Phạm Liệu chắc cũng chả muốn gặp lại ai nữa. Tôicũng không muốn tìm thấy người quen nào nữa.

Những ngày đầu tiên đến đất Mỹ là những lúc vậtlộn với cuộc đời mới cũng như các bạn bè khác trong giới Y khoa để tìm đường trở về nghề cũ. Và cũng như đa số bạn bè y khoa tôi cuối cùng cũng trở lại nghiệp Y.

Thỉnh thoảng tôi cũng được nghe đến anh Tô Phạm Liệu.Tôi được biết anh đã quay lại hành nghề ở một nhà thương điên (state hospital) nào đó ở Kansas. Tôi được biết anh uống rượu nhiều, rất nhiều. Tôi muốn nhưng chả bao giờ có dịp liên lạc.

Năm 1989 tôi đi dự cuộc họp Hội Y Sĩ Quốc Tế Việt Nam Tự Do ở một khách sạn lớn ở Little Saigon, California.Ðang đi vớ vẩn trong khách sạn thì có tiếng gọi tên. Tôi nhìn ra thấy Huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Anh em gặp nhau mừng ứa nước mắt.

Anh dẫn tôi vào ngồi ở một quầy rượu. Anh uống rượu mạnh liên miên. Tô Phạm Liệu lần này nói chuyện nhiều hơn, nói khá nhiều. Có khi là người nói, có Khi là "rượu nói." Anh nhìn tôi và nói, và nhắc nhở đến Ðoàn Trung Bửu (Biệt Ðộng Quân, chết trên đường ra đơn vị 1975), Vũ Ðức Giang (Thủy Quân Lục Chiến, tự tử chết trong trại học tập 1976)... Ðó là những bạn cùng lớp Khóa 21 Quân Y của tôi, những đàn em của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Quân Y 19 năm trước của anh, đã hy sinh trong những ngày vừa qua.

Anh Tô Phạm Liệu bây giờ ốm hơn trước. Anh Liệu cho biết là anh đang bị bệnh đái đường (diabetes mellitus).Nhưng anh vẫn uống rượu liên miên. Anh cho biết "có lẽ"đã bị chứng đau thần kinh vì đái đường(diabeticneuropathy). Tô Phạm Liệu bảo những cơn đau rất gần nhau và khá nặng. Nhưng anh vẫn không uống thuốc giảm đau.Tôi hiểu anh muốn có đau thể xác đó để cho mất cái đau tinh thần.

Tô Phạm Liệu nói là cảm thấy lẻ loi ở cái Ðại Hội Y Sĩ có nhiều những người "mặc quần mới áo đẹp" và"ăn to nói lớn," thích "nhảy đầm" và "xếp hàng để lên hát"... Trong cơn say anh nói là phải chi trước kia mườ imấy năm trước anh được "ở lại Charlie" với Trung tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì "sướng hơn nhiều."

Tô Phạm Liệu chỉ thích uống rượu và "không muốn làm gì nữa cả."

Tôi không uống được nhiều rượu nhưng cũng uống hai ba ly rượu để làm vừa lòng anh. Tôi chú ý nghe anh nói. Anh nói chuyện vẫn hay và hấp dẫn. Mười chín năm trước đó, khi anh đang huấn luyện tâ nsinh viên quân y, mỗi lần nghe anh nói chuyện tôi hầu như thấy anh nói đều có lý cả. Lúc này thì khác. Có nhiều chỗ tôi thấy anh nói đúng. Có nhiều lúc tôi nghĩ là anh nghĩ sai. Nhiều lúc là "rượu nói" chứ không phải anh nói nữa. Nhưng tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều.

Giữa tiệc rượu của hai anh em, sau 15 năm mới gặp gỡ, Tô Phạm Liệu làm tôi ngạc nhiên khi nói là muốn đọc thơ cho tôi nghe. Anh nói là anh chả có thích thơ và cũng chả nhớ bài thơ nào nhưng chỉ thích và nhớ một đoạn trong bài thơ "Nhớ Rừng" của Thế Lữ:

"...Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi

Với khi thét khúc trường ca dữ dội

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi dứng uống ánh trăng tan

Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới..."

Tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều hơn. Tôi vẫn kính trọng anh. Tôi vẫn thương mến anh như những ngày xưa, và cót hể là hơn những ngày xưa nữa.

Nhưng vẫn có những điểm tôi không đồng ý với anh Liệu.

Lần gặp gỡ đó là lần sau cùng tôi gặp người anh lớn của khóa tân sinh viên sĩ quan quân y ngày nào của chúng tôi.

Sau này tôi được biết anh đã dọn về ở tiểu bang Lousiana và làm việc ở một nhà thương nào đó.

Và đến bây giờ Huynh trưởng Tô Phạm Liệu đã vĩnh viễn ra đi.

Tờ cáo phó của tờ báo Người Việt trên tay tôi trở thành mờ nhạt:

"Vô cùng thương tiếc bạn chúng ta, Tô Phạm Liệu (1947-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù... đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 tháng Chín năm 1997... Cầu Anh Linh bạn quên phiền hà, coi như trở lại Charlie..."

Tôi nhìn qua khung cửa sổ.

Xa xa trên bầu trời trong xanh, gần những đám mây trắng ở trên thật cao, hình như mờ ảo có một cánh dù nhỏ bé...

Anh trở lại tìm Nguyễn Ðình Bảo và những anh em nhảy dù khác, những đồng đội đã "ở lại Charlie."

Tô Phạm Liệu: Người Trở Lại Charlie.


Tháng Mười 1997, Santa Maria, California

Phạm Anh Dũng